THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Ngày 7 tháng 4 năm 30
(Theo chân Đức Giêsu trong Tuần Thánh)
TỪNG BƯỚC THEO NGÀI (8)
I. Trước Tòa Philatô
Thượng Hội Đồng do thái giáo, dù không có quyền nhưng đã tuyên án xử tử Đức
Giêsu. Tuy nhiên để có thể thi hành án này thì họ cần được Rôma chấp thuận. Bởi
vậy họ giải Đức Giêsu đến Philatô.
"Vậy người do thái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh Tổng
trấn" (Ga 18,28).
Thực ra ở Giêrusalem không có Dinh của tổng trấn Rôma vì ông không thường
xuyên ở đây. Theo các sử gia Philon và Flavius Josèphe cho biết thì Tổng trấn
Rôma chỉ đến Giêrusalem vào những dịp có đông người, để giám sát an ninh trật
tự. Khi tới Giêrusalem, tổng trấn thường ở tại Pháo đài Antônia nằm ở phía bắc
thành Giêrusalem. Thông thường thì ở pháo đài Antônia có khoảng 600 lính. Nhưng
khi tình hình căng thẳng thì có thêm quân từ thành phố Xêdarê đến tăng viện. Mà
năm 30 thì tình hình căng thẳng theo như một chi tiết ở Lc 13,1 cho biết (Lc
13,1 : một số người Galilê lên Giêrusalem dự lễ đã bị lính của Philatô
giết lây trong một cuộc dẹp loạn). Như vậy, từ "dinh tổng trấn" chỉ
là nơi tổng trấn đang ở thôi, và trong hoàn cảnh cụ thể của chuyện này thì đó
chính là pháo đài Antônia.
Như đã trình bày ở phần trên, Thượng Hội Đồng Do thái giáo không có quyền
xử tử. Họ đã lên án tử cho Đức Giêsu vì tội phạm thánh, nhưng để án này được
thi hành thì họ cần được tổng trấn Rôma chấp thuận. Vì thế mà họ mới giải Đức
Giêsu đến tòa của Philatô. Dù vậy, họ biết rằng Philatô sẽ không chấp nhận án
tử chỉ vì những lý do tôn giáo riêng của dân do thái. Bởi đó trước mặt Philatô,
Thượng Hội Đồng hoàn toàn không đá động gì tới tội phạm thánh. Thay vào đó là 3
tội danh chính trị : xách động quần chúng, ngăn chặn việc nộp thuế cho
Xêda, và tự xưng là vua.
Thái độ của Philatô trong phiên xử này rất là lưỡng lự : (1) Ban đầu
ông không tin những lời tố cáo đó nên nói : "Ta không tìm thấy lý do
nào để kết tội ông ấy ?" (Ga 18,38). Nhưng để làm vừa lòng người do
thái, ông ra lệnh đánh đòn Đức Giêsu. Xong đưa Ngài ra trình diện đám đông với
một thân thể rất tội nghiệp, hy vọng rằng họ sẽ thương tình mà đồng ý tha Ngài.
Nhưng dân chúng la to : "Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp
vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê cho đến đây" (Lc 23,5) ; (2) Philatô
đang tìm một lối thoát cho mình, nên vừa nghe tới Galilê ông liền chộp lấy cơ
hội : giải Đức Giêsu sang vua Hêrôđê. Ông này cai trị vùng Galilê và hiện
đang có mặt ở Giêrusalem để dự lễ. Hêrôđê là một người hiếu kỳ. Từ lâu ông đã
muốn gặp mặt con người đặc biệt tên Giêsu ấy. Nhưng Đức Giêsu chẳng làm một
phép lạ nào cho ông thưởng thức. Thậm chí Ngài cũng chẳng nói một câu nào.
Hêrôđê thất vọng nên lại gởi trả Đức Giêsu về cho Philatô. Thế là quả bóng lại
được chuyền về phía Philatô ! Ông này đành tiếp tục cuộc xử ; (3)
Đang lúc Philatô bối rối như thế thì bà vợ ông sai người đến nói với ông
"Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, trong
chiêm bao, tôi đã khổ nhiều vì ông ấy" (Mt 27,19). Những lời của bà vợ
khiến Philatô càng muốn tha Đức Giêsu. Nhưng để có lý do mà tha thì Philatô đưa
một tên gian phi tên Baraba ra để cho họ so sánh với Đức Giêsu, với hy vọng là
họ sẽ xin tha Đức Giêsu. Nào ngờ người do thái lại xin tha cho Baraba và đòi
giết Đức Giêsu.
Các hoàng đế Rôma (như Maximilen và Dioclétien) đã có chỉ dẫn cho các quan
tòa rằng : "Quan tòa không được nghe theo những đòi hỏi vô cớ của
quần chúng, bởi vì họ thường muốn tha kẻ có tội và kết án người vô tội".
Philatô cũng biết điều đó chứ. Nhưng tại sao cuối cùng ông giao Đức Giêsu cho người
do thái đem đi giết ? Sử gia Philon cho rằng Philatô đang có nhiều điều
sai trái mà ông không muốn cho Hoàng đế biết : do cai trị kém cỏi, ông đã
để xảy ra nhiều cuộc nổi loạn, kho báu của Đền thờ bị mất cắp, trong thời gian
cầm quyền ông đã tham nhũng, ức hiếp người vô tội, điều hành kém, ra nhiều sắc
lệnh sai trái v.v. cho nên ông sợ người do thái sẽ cử một phái đoàn đi Rôma tố
cáo ông. Vậy để tránh tai họa này, ông đành làm theo đòi hỏi của họ.
Vậy là cuối cùng, Philatô đành giao Đức Giêsu cho người do thái đem đi đóng
đinh.
Đến đây, bắt đầu những cuộc hành hạ Đức Giêsu.
II. Đánh đòn
Cuộc hành hạ khởi sự với màn đánh đòn.
Đối với luật do thái, hình phạt đánh đòn được áp dụng cho một số tội (xem
Đnl 25). Nhưng phải theo một số quy định : (1) Phải dùng roi thường ;
(2) Không được đánh quá 40 roi. Để bảo đảm không sai luật, người ta thường chỉ
đánh 39 roi rồi dừng lại : 13 roi trên ngực, mỗi vai 13 roi ; (3) Đôi
khi để tiến hành nhanh hơn, người ta có thể dùng roi da 3 sợi. Khi đó thì chỉ
được đánh 13 cái thôi.
Theo luật Rôma thì tàn nhẫn hơn : (1) Không quy định số lần đánh, mà
để tùy ý của vị xét xử hoặc của người hành xử ; (2) Có hai loại roi :
flagella là roi da. Nếu đánh mạnh thì có thể làm gãy xương vai hoặc xương
sống ; còn đánh nhẹ thì có thể làm tróc da. Horace đã gọi hình thức đánh
đòn này là "horribile flagellum" (trận đòn khủng khiếp) ; flagra
là những sợi dây xích mà ở cuối có gắn thêm những mãnh kim loại hoặc xương cừu.
Từ hy lạp trong Tin Mừng Mc chỉ loại roi thứ hai, còn trong Mt là loại thứ
nhất. Sự thực không biết thế nào. (3) Nạn nhân bị trói vào một cái cột để khó
né tránh những ngọn roi, còn áo quần thì phải cởi ra để cho các lằn roi chạm
mạnh hơn vào da thịt. Tóm lại hình phạt đánh đòn theo luật Rôma rất là tàn
nhẫn. Sách Công vụ Tông đồ kể rằng khi Phaolô sắp bị đánh đòn, ngài đã sử dụng
quyền công dân Rôma để thoát khỏi hình phạt tàn nhẫn này. (4) Ngoài ra, đối với
những nạn nhân bị án tử, việc đánh đòn này còn có mục đích làm cho nạn nhân yếu
đi để không còn sức chống cự khi bị đóng đinh.
III. Sỉ nhục
Ngoài hình phạt đánh đòn chính thức, quân lính còn có thể nghĩ ra thêm
những cách để hành hạ nạn nhân.
Đối với Đức Giêsu, chúng bày trò chế diễu Ngài như một ông vua cỏ :
lột áo Ngài ra, thay vào đó là một tấm áo choàng màu đỏ tượng trưng cho cẩm
bào, đặt vào tay Ngài một cây sậy tượng trưng cho vương trượng, đội lên đầu
Ngài một chiếc mão gai tượng trưng cho vương miện.
ĐHY Carlo Maria Martini đã giải thích tâm lý chiều sâu của đám quân lính
hành hạ Đức Giêsu là "frustration et désir de revanche", "vì bị
thất đoạt nên thích trả thù".
a/ Thất đoạt : họ là những kẻ làm lính để ăn lương nhưng lương thì rất
thấp ; họ chỉ là lính quèn nên thường bị các sĩ quan cấp trên chửi mắng,
trừng phạt ; họ là lính cho đế quốc nên bị dân chúng do thái khinh ghét…
b/ Những thất đoạt trên cứ chồng chất ngày càng thêm trong lòng, tạo nên
một sự dồn nén, hễ có dịp là trút ra bằng những hành động dã man trên người nào
vô phúc rơi vào tay họ. Và Đức Giêsu là người vô phúc ấy.
Một số tài liệu lịch sử có thể giúp chúng ta hiểu thêm về hình phạt đánh
đòn và trò sỉ nhục mà Đức Giêsu phải chịu :
1/ Có một trò lễ hội dân gian được đặt tên là Sacaea : Người ta bầu
chọn một người nào đó lên làm "vua cỏ". Vị "vua" này được
thoải mái trong hai ba ngày, tha hồ muốn làm gì thì làm, kể cả ngủ với các cung
phi của nhà vua. Sau 2,3 ngày đó thì ông vua cỏ ấy bị lột hết quần áo, bị đánh
đòn và treo cổ chết. Phải chăng đám lính Rôma đã bắt chước tục lệ này để hành
hạ Đức Giêsu ?
2/ Những khai quật khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của một trò mà lính Rôma
thích chơi : ở một góc sân của pháo đài Antônia có hình vẽ những ô chữ
nhật tương tự như trò chơi nhảy cò cò của trẻ em thời nay. Mỗi ô có một con số
hoặc mẫu tự chỉ thị một việc nào đó mà người chơi phải làm. Người ta dùng một
thứ gì đó để thảy vào các ô ấy. Ai thảy vào ô nào thì phải thực hiện điều được
viết trong ô đó. Có lẽ quân lính Rôma đã chơi trò này : chúng lần lượt
thảy vào các ô, ai thẩy trúng ô nào thì thực hiện lệnh viết trong ô đó lên mình
Đức Giêsu (đánh bao nhiêu roi, hành hạ cách nào v.v.)
TỪNG BƯỚC
THEO NGÀI (9)
IV. Đường Thánh Giá
Từ thế kỷ IV, những người hành hương Thánh địa có sáng kiến đi lại con
đường Đức Giêsu đã đi trong cuộc chịu nạn, từ pháo đài Antônia đến Núi Sọ, đoạn
đường khoảng chừng 400-500 mét. Sau đó, do các cha dòng Phanxicô quảng bá, việc
đi đường Thánh Giá được thực hiện ở nhiều nơi khác khắp thế giới : đi
ngoài đường, đi trong nhà thờ v.v.
Thông thường thì đường Thánh Giá gồm 14 chặng, nhưng cũng có những cách
khác không theo số lượng đó (chẳng hạn 15 chặng). Tuy nhiên sự kiện của mỗi
chặng nhiều khi chỉ là suy đoán (thí dụ 3 lần Đức Giêsu ngã xuống, Chúa Giêsu
gặp Đức Mẹ). Dù sao các suy đoán ấy cũng không sai sự thật lịch sử. Ngoài ra
chúng còn giúp ích cho lòng đạo đức.
Sau đây, xin đi vào chi tiết một số chặng.
Chặng thứ 2 : Vác thập giá
Có những cuộc xử tử phải tiến hành cách "rầm rộ" để làm bài học
răn đe dân chúng. Vì vậy mà phải tổ chức một cuộc diễu hành của tội nhân qua
các đường phố dẫn tới pháp trường.
Nếu xử theo luật do thái thì có những chỉ dẫn sau đây của sách
Talmud : Tử tội phải được dẫn đi giữa ban ngày để mọi người đều có thể
nhìn thấy ; một người dẫn đầu cuộc diễu hành vừa đi vừa hô to tên của tội
nhân và tội của hắn, hoặc cầm cao một tấm bảng ghi các chi tiết này ; có
hai học giả thần học đi kèm hai bên tội nhân và buộc tội nhân phải thú nhận tội
lỗi của mình, đồng thời tuyên bố mình chấp nhận chết để đền tội ; lại có
một đại diện của Thượng Hội đồng đi theo để giám sát cuộc thi hành án.
Nếu theo luật Rôma thì cũng tương tự : đi đầu là một viên sĩ quan bách
quản, tiếp theo là một toán lính gồm từ tối thiểu là 4 người cho đến 100 người
nếu tử tội là một kẻ nguy hiểm. Cũng có một tấm bảng ghi tên và tội danh của
người bị xử tử.
Không biết cuộc diễu hành của Đức Giêsu qua các đường phố là theo kiểu Rôma
hay do thái. Nhưng quả thực là có cuộc diễu hành đó.
Sử gia Plutarque cho biết là nạn nhân phải tự vác lấy thập giá của mình.
Điều này đúng với chi tiết ghi trong Tin Mừng Gioan : "Đức Giêsu vác
thập giá của Ngài" (Ga 19,17). Nhiều sử gia khác nhất trí rằng nạn nhân
chỉ vác thanh ngang thôi, còn thanh dọc thì đã để sẵn ở pháp trường. Cả bộ thập
giá 2 thanh thì nặng chừng 70 kg, riêng thanh ngang thì chỉ chừng 30 kg.
Nếu chỉ vác 30 kg thì một người đàn ông 30 tuổi như Đức Giêsu dư sức. Nhưng
đêm trước đó Ngài đã thức trắng vì những cuộc thẩm vấn, bị đánh đòn, mất nhiều
máu. Ngoài ra thời tiết tháng 4 ở Giêrusalem rất nóng, nhất là từ 11 trưa giờ
về sau. Bởi thế Đức Giêsu vác không nổi (Từ đó người ta suy ra 3 lần Chúa Giêsu
bị ngã xuống đất). Vị sĩ quan phụ trách cuộc hành hình lo ngại Đức Giêsu không
tới được nơi hành hình nên đã bắt một người vác thay cho Ngài.
Chặng thứ 5 : Ông Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu
Ba quyển Tin Mừng nhất lãm đều ghi nhận chi tiết này (Mt 27,32 ; Mc
15,21 ; Lc 23,26). Đó là một người vừa xong việc đồng áng trở về. Hôm đó
chỉ mới là Thứ Sáu, chưa buộc nghỉ việc theo luật Sabát. Tên ông là Simon người
gốc xứ Xyrênê.
Thánh truyền cho rằng Simon là một trong số 72 môn đệ Đức Giêsu. Mác cô cho
biết thêm tên 2 người con trai của ông là Alexandre và Rufus. Mác cô đã kể tên
họ ra có lẽ vì họ là 2 nhân vật tích cực trong Giáo Hội sơ khai. Thánh Phaolô
cũng có nhắc tới ông Rufus (Rm 16,3). Bản thân Simon cùng với các con của ông
đều đã trở thành những kitô hữu tốt. Đó chính là hiệu quả của việc ông Simon
thông phần vào Thập giá Đức Giêsu vậy.
Chặng thứ 8 : Những phụ nữ thành Giêrusalem
Thánh Luca ghi rằng "có đông người đi theo" (Lc 23,27).
Điều này dễ hiểu : những cuộc xử tử thường lôi cuốn những kẻ hiếu kỳ.
Vả lại vụ án Đức Giêsu đã bắt đầu từ 5 ngày trước nên dư luận đã biết tới
nhiều. Mấy ngày sau, hai môn đệ Emmau đã nói với Đức Giêsu mà khi đó các ông
chưa nhận diện : "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem
mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay ?"
(Lc 24,18).
Đám đông ấy gồm những ai ? Dĩ nhiên là có những kẻ hiếu kỳ, những
người chưa từng quen biết Đức Giêsu. Nhưng đương nhiên cũng có những người thân
của Ngài, những người từng làm môn đệ Ngài, những người từng chịu ơn Ngài. Điều
khiến chúng ta phải suy nghĩ là không một ai lên tiếng bênh vực Ngài. Chúng ta
suy nghĩ về chi tiết này bởi vì Luật do thái đã quy định rằng đang lúc cuộc xử
tiến hành, chỉ cần có một người nào đó lên tiếng phản đối bản án, thì phải xử
lại ngay lập tức. Trong vụ án bà Suzanna, tiếng nói của một đứa bé như Đaniên
mà cũng thay đổi được tình hình. Dựa vào khoản luật này, ta có thể tưởng tượng
thêm mà không sợ sai là dẫn đầu đoàn diễu hành có một viên chức thỉnh thoảng
rao to lên : "Nếu có ai thấy vụ án này bất công, nếu có ai thấy tên
Giêsu này vô tội, thì hãy lên tiếng". Vậy mà không một ai lên tiếng bênh
vực Đức Giêsu !
Tại sao ? Chắc là vì sợ, nhất là sợ các Thượng tế. Cũng có lẽ vì không
muốn phiền phức lôi thôi : dù sao thì sự việc đã định rồi. Thôi kệ !
Can thiệp chi cho mất công ! Và cũng có lẽ đó là tâm lý thường tình của
quần chúng : được làm vua, thua làm giặc ! Ngụ ngôn do thái có
câu : "Các ngôn sứ thất bại chỉ còn một ít đệ tử". Do tâm lý
này, chẳng những người ta không bênh vực Đức Giêsu, mà còn hùa theo đám đông để
chế nhạo Ngài.
Nhưng có một số phụ nữ không kềm được tình cảm của mình. Họ đứng bên vệ
đường khóc thút thít. Đức Giêsu đã dừng lại an ủi họ (Lc 23,28.31). Ngài quên
nỗi khổ của bản thân để an ủi những người khác đau khổ.
Chặng thứ 6 : Bà Vêrônica lau mặt Chúa
Thánh truyền kể rằng có một phụ nữ đã can đảm tiến ra lấy khăn lau mặt Đức
Giêsu. Và để đáp lại tấm lòng của Bà, Ngài đã in khuôn mặt mình vào tấm khăn
ấy. Bà ấy là ai ? Có nhiều giả thuyết : (1) Đó là Maria làng
Bêtania ; (2) Đó là người phụ nữ đã được Ngài chữa khỏi bệnh loạn
huyết ; (3) Đó là vợ của ông Dakêu, người mà trước đó không lâu đã được
Đức Giêsu ban ơn hoán cải ; (4) Đa số thì nói tên bà là Vêrônica. Có người
cho rằng Vêrônica là đọc trại tên Bérénice.
Cây Thập giá
Nơi hành hình Đức Giêsu được 4 sách Tin Mừng đều gọi tên là "Sọ"
trong tiếng Latin là Calvarius. Đó là một ngọn đồi hình dáng giống chiếc sọ
người. Luật ghi trong Đnl 13,11 buộc phải thi hành việc xử tử ở một nơi mà
nhiều người có thể nhìn thấy "để cho dân trông thấy mà sợ". Chính vì
thế mà người ta đã chọn địa điểm này, một ngọn đồi hơi cao ở gần cổng thành.
Hình phạt đóng đinh có nguồn gốc từ dân Ba Tư và được đế quốc Rôma xử dụng.
Tuy nhiên Rôma chỉ áp dụng hình phạt này cho những tên trộm cướp, phản loạn…
thuộc thành phần nô lệ và ngoại kiều. Viên chức nào ra lệnh đóng đinh một công
dân Rôma thì sẽ bị kết tội.
Có nhiều loại thập giá : (1) "Crux simplex", thập giá đơn,
chỉ có một thanh dọc ; (2) "Crux summissa" hay "crux
commissa" có thêm thanh ngang phía trên, làm thành hình chữ T ; (3)
"Crux decussata" hình chữ X ; (4) "Crux capitata" đầu
của thanh dọc cao hơn thanh ngang một chút, nên thành hình chữ thập. Thập giá
của Đức Giêsu thuộc loại thứ tư này. Nó không cao lắm, chiều cao chỉ bằng 1,5
chiều cao thân thể nạn nhân, vì nếu cao hơn thì khó cho việc hành hình.
Chuẩn bị đóng đinh
Trước khi tiến hành việc đóng đinh, người ta cho nạn nhân uống một thứ
thuốc giảm đau. Sách Châm ngôn ghi lại một lời khuyên : "Hãy cho
người sắp chết uống rượu mạnh" (Cn 31,6). Đây là một thức uống nhằm làm
giảm đau. Theo sách Talmud, ở Giêrusalem có một hội của các phụ nữ giàu có
chuyên cung cấp thứ nước này cho các tử tội. Tin Mừng Mc ghi là người ta đã
trao cho Đức Giêsu "rượu pha mộc dược" (Mc 15,23) ; còn Tin Mừng
Mt thì nói đó là "rượu pha mật đắng" (Mt 27,34). Có lẽ Mt đã lầm chữ
hy lạp mora (mộc dược) với memora (mật đắng). Vả lại Mt muốn viết như thế để
cho thấy ứng nghiệm Thánh vịnh 59,22 "Chúng đã pha mật đắng vào thức ăn
của tôi, và chúng cho tôi uống giấm chua". Dù sao thì cả Mc và Mt đều ghi
nhận rằng Đức Giêsu đã không uống : Ngài muốn chịu cho đến tận cùng những
khổ hình thập giá.
Chặng thứ 10 : Lột áo
Sau khi cho nạn nhân uống thuốc giảm đau, người ta lột áo nạn nhân ra. Cả 4
quyển Tin Mừng đều ghi nhận Đức Giêsu bị lột áo (Mt 27,35 ; Mc
15,24 ; Lc 23,34 ; Ga 19,23).
Vấn đề cần tìm hiểu là Đức Giêsu đã bị lột hết quần áo hay còn được chừa
lại một chút để che sự lỏa lồ. Một số người nghĩ rằng vì lòng nhân đạo, người
ta không lột hết quần áo nạn nhân. Nhưng Thánh Ambrôsiô, Augustinô và Cyprianô
nghĩ rằng Đức Giêsu bị lột hết. Sự thật không rõ thế nào. Riêng đối với nữ tội
nhân thì người ta chừa lại phần che phía thân trước.
Áo của nạn nhân thuộc quyền sở hữu của đám lính hành hình, như một thứ thù
lao. Tin Mừng Ga nói là quân lính "đã chia áo Đức Giêsu ra làm bốn phần,
mỗi người một phần" (Ga 19,23).
Nhưng chiếc áo dài của Đức Giêsu không có đường khâu nên chúng không xé ra,
mà rút thăm xem ai được (Ga 19,24).
Đây là loại áo mà vị Thượng Tế do thái phải mặc. Bởi đâu mà Đức Giêsu có
chiếc áo quý giá này ? Cũng có nhiều giả thuyết : (1) Do Đức Maria
dệt đặc biệt cho con mình ; (2) Đó là một món quà của một phụ nữ đạo đức
nào đó ; (3) Đó là tấm áo choàng đỏ mà quân lính đã khoác lên Ngài để chế
nhạo.
Chúng ta không cần tìm hiểu lai lịch của chiếc áo này. Chỉ cần hiểu ý nghĩa
mà Tin Mừng Gioan muốn nhấn mạnh : (1) Đức Giêsu là Thượng Tế ; (2)
Chiếc áo không bị xé ra tượng trưng cho Giáo Hội của Ngài không thể bị chia rẻ.
Chặng thứ 11 : Đóng đinh
Trước tiên, cần tìm hiểu vị trí của những chỗ đóng đinh trên thân thể nạn
nhân. Ai cũng biết là đóng lên tay và chân. Nhưng cần xác định rõ hơn
nữa :
- Về tay : hầu hết các bức họa đều vẽ Đức Giêsu bị đóng đinh giữa lòng
bàn tay. Các vị được đặc ân in 5 dấu thánh cũng có vết thương nơi lòng bàn tay.
Nhưng những nhà nghiên cứu dựa trên y học thì nói rằng không thể đóng đinh vào
giữa lòng bàn tay, vì khi treo xác lên, sức nặng của cơ thể sẽ xé rách bàn tay
ra và thân thể nạn nhân sẽ rơi xuống đất. Vì thế họ cho rằng đinh phải được
đóng ở chỗ dưới cườm tay. Chỗ này có một cái hốc giữa hai nhánh xương nên sức
chịu đựng lớn hơn. Giải thích này hợp lý. Nếu Đức Giêsu bị đóng đinh nơi cườm
tay thì sự đau đớn của Ngài khủng khiếp hơn, bởi vì chỗ đó là nơi hội tụ những
dây thần kinh.
- Về chân : Có lẽ người ta bắt hai bàn chân của nạn nhân chụm lại và
đóng một chiếc đinh duy nhất, phía trên mắt cá.
- Về thứ tự những nhát đinh : Ban đầu người ta bắt nạn nhân nằm lên
thanh ngang để đóng hai tay vào đó. Sau đó dùng dây để kéo thân thể lên thanh
dọc, rồi đóng tiếp hai chân.
Những đau đớn vì bị đóng đinh thật là khủng khiếp : (1) Đinh chạm vào
các dây thần kinh nên gây ra những cơn đau dữ dội ; (2) Chất sắc của đinh
nhiễm vào máu gây ra chứng co giật vì phong đòn gánh ; (3) Mất máu nên
khát nước ; (4) Máu bị nhiễm trùng nên bộ máy hô hấp phải làm việc tối đa
để lọc máu ; (5) Nhưng trong khi đó thì hai tay của nạn nhân bị căng ra
nên khó thở. Để thở, nạn nhân phải rướn mình trên hai chân, nhưng như thế là
sức nặng toàn thân dồn xuống chân khiến hai chân rất đau. Để bớt đau, nạn nhân
lại buông mình treo trên hai tay và tới phiên hai tay phải đau. Cơ thể nạn nhân
cứ nhô lên hụp xuống liên tục. (Vì thế, để cho nạn nhân chết nhanh, người ta
đập gãy ống chân để không còn có thể rướn lên mà thở nữa).
Lịch sử cho biết thêm rằng trong một trận chiến giữa người do thái với quân
Rôma, quân Rôma đã bắt được một thủ lãnh của người do thái tên là Éléazar. Quân
Rôma chỉ cần làm bộ như sắp đóng đinh vị thủ lãnh này thì lập tức quân do thái
chịu đầu hàng ngay. Đủ biết là hình khổ đóng đinh dã man đến mức nào !
Cũng chính vì hình phạt đóng đinh quá dã man nên kitô hữu thế kỷ đầu không dám
dùng ảnh Thánh Giá. Khi Constantinô lên làm Hoàng Đế Rôma thì một trong những
việc đầu tiên ông làm là ra lệnh hủy bỏ hình phạt thập giá.
Khi việc đóng đinh hoàn tất thì đã khoảng giữa trưa ngày thứ sáu áp lễ Vượt
qua. Đó chính là giờ tín đồ do thái bắt đầu giết chiên vượt qua. Cơn hấp hối
của Đức Giêsu hòa nhịp với những tiếng rên la của các con chiên vô tội đang
vang lên khắp Giêrusalem.
Chặng thứ 12 : Những giờ phút cuối cùng
Đức Giêsu hấp hối trên thập giá "từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín"
(Mt 27,45), nghĩa là từ 12 giờ trưa đến 3 giờ chiều, tức là kéo dài 3 tiếng
đồng hồ. 3 tiếng đồng hồ khủng khiếp ! Hai bên Ngài có hai tên gian ác
cùng bị xử chung.
Nên nhớ là đồi Golgotha ở gần cổng thành Giêrusalem, và lúc đó là thời gian
sắp bắt đầu lễ Vượt qua, cho nên khách đi ngang qua đó để tiến vào thành rất là
đông. Đa số họ không tìm hiểu cặn kẻ vụ án, chỉ thấy ai bị đóng đinh là cho
rằng người ấy đã phạm trọng tội. Vì vậy rất nhiều người chỉ chỏ, xì xào, chửi
rủa.
Phần Đức Giêsu, từ đầu tới cuối cuộc hành hình, Ngài luôn im lặng. Ngài chỉ
nói 3 câu, 3 câu dạt dào yêu thương :
1/ Câu nói thứ nhất của Đức Giêsu : "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì
họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). Người do thái không biết đến việc
tha thứ cho kẻ thù. Môn đệ Đức Giêsu thì đã được dạy làm thế. Nhưng tha thứ kẻ
thù không phải là lý thuyết. Tha trong hoàn cảnh cụ thể mình đang bị kẻ thù
hành hạ khủng khiếp mới đáng phục. Đức Giêsu đã nêu cho chúng ta một tấm gương
tha thứ cụ thể đến mức nào !
Chúng ta hãy tìm hiểu một hiện tượng được ghi lại trong Mt 27,45 :
"Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất mãi cho đến giờ thứ
chín". Hai quyển Tin Mừng nhất lãm kia cũng ghi nhận như thế (Mc
15,33 ; Lc 23,44).
Hiện tượng này có xảy ra thật không ? Một số nhà nghiên cứu cho là có
thể, đó là do nhật thực. Nhưng nhiều giáo phụ, như Origène, Jérome và Gioan Kim
Khẩu cho rằng thời gian đó không thể nào xảy ra nhật thực vì khi đó đang vào
thời trăng tròn nên mặt trăng không thể nào xuất hiện giữa ban ngày được. Có
một giải thích khá hợp lý như sau : đó là một hiện tượng đặc biệt gọi là
Khamsin, "hơi thở đen của sa mạc", tức là ở vùng sa mạc thỉnh thoảng
có một luồng gió cuốn theo rất nhiều bụi che đen cả một vùng trời trong một
khoảng thời gian, Hiện tượng này không phải hiếm ở vùng Trung Đông, nhất là vào
khoảng tháng 4. Phải chăng đó cũng là hiện tượng đã xảy ra bên Ai cập vào thời
Môsê ?
Điều quan trọng là ý nghĩa mà các Tin Mừng nhất lãm muốn nói qua cách diễn
tả đó. Các ngài đã dựa vào lời tiên tri của Amos (Am 8,9 : "Sẽ xảy ra
là trong Ngày Ấy, Ta sẽ cho mặt trời lặn giữa trưa ; và giữa ban ngày Ta
làm cho đất tối sầm lại") để nói rằng đó là dấu chỉ "ngày của
Chúa" đã đến.
2/ Câu nói thứ hai của Đức Giêsu : Ngài nói với một trong hai tên gian
ác bị đóng đinh bên cạnh "Tôi bảo thật anh : hôm nay anh sẽ được ở
với tôi trên Thiên đàng" (Lc 23,43).
Nhiều người đã tìm hiểu tên của hai kẻ gian ác này, và có nhiều giả
thuyết : (1) Dismas và Geslas ; (2) Démas và Cystas ; (3)
Zoathan và Chammatha ; (4) Titus và Dumachus ; (5) Moab và Zandi… Có
giả thuyết nói rằng tên "trộm lành" này chính là đứa trẻ khi xưa đã
nhường thức ăn cho trẻ Giêsu khi Ngài tị nạn bên Ai cập. Lại có chuyện kể rằng
khi anh tỏ lòng sám hối với Đức Giêsu thì các Thượng tế tức giận nên ra lệnh
đập gãy ống chân của anh ! Chúng ta không quan tâm đến các truyền thuyết
ấy. Chỉ ghi nhận lòng nhân từ thương xót của Đức Giêsu. Tên trộm lành này chính
là người thợ làm vườn nho vào giờ thứ 11.
3/ Câu nói thứ ba của Đức Giêsu là trối thánh Gioan cho Đức Mẹ và trao Đức
Mẹ cho thánh Gioan (Ga 19,26-27). Giáo Hội hiểu thánh Gioan là đại diện cho
mình.
"Đã hoàn
tất"
3 giờ chiều. Tại Đền thờ Giêrusalem bắt đầu các nghi thức đầu tiên của Lễ
Vượt qua : 3 tiếng kèn (một ngắn, một dài, một ngắn) thổi lên ; Vị
Thượng Tế bắt đầu bước lên các bậc thang Đền thờ, thánh ca hòa với tiếng sáo
nổi lên. Đang lúc đó, trên đồi Golgatha Đức Giêsu cũng cất tiếng "Thế là
đã hoàn tất. Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần khí" (Ga 19,30).
Đấy không phải là kết thúc của một sự thất bại, mà là đỉnh cao của một cuộc
chiến thắng, một chiến thắng huy hoàng sau bao nhiêu chiến đấu vô cùng gian
khổ. Thánh Gioan đã ngụ ý như thế trong cách dùng từ của mình : (1) Không
phải đầu Đức Giêsu hết sức không thẳng nổi nên phải gục xuống, mà là Ngài chủ
động gục đầu mình xuống ; (2) Không phải đó là lúc hơi thở cuối cùng của
Ngài tắt lịm, mà là lúc Ngài trao ban Thần Khí cho nhân loại, Thần khí cứu độ,
Thần khí thánh hóa.
Lúc đó lại có một hiện tượng được hai quyển Tin Mừng Mt và Mc ghi
nhận : Bức màn trong Đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới (Mt
27,51 ; Mc 15,37) Riêng Mt còn thêm các chi tiết "Đất rung, đá vở. Mồ
mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chổi dậy. Sau khi Chúa
chổi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra với nhiều người"
(Mt 27,51-53).
Về bức màn, Cha Lagrange cho là cũng chính cơn gió mạnh Khamsin đã nói phía
trên làm cho bức màn trong đền thờ bị xé rách.
Nhưng chúng ta nên hiểu ý nghĩa mà những hiện tượng trên ám chỉ : (1)
Bức màn đó là màn ngăn cách gian thánh của Đền thờ với các gian khác phía
ngoài. Nó bị xé rách nghĩa là cái chết của Đức Giêsu đã xoá bỏ sự ngăn cách
giữa Thiên Chúa với loài người, giữa dân do thái và muôn dân ; (2) Đất rung
đá vở là những hiện tượng cho biết có Thiên Chúa can thiệp : cái chết của
Đức Giêsu nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa ; (3) Các thánh
"chổi dậy" là hiệu quả của cái chết cứu chuộc của Đức Giêsu.
Lưỡi đòng
Trời sắp về chiều, toán lính phụ trách hành hình muốn kết thúc công việc để
về nhà. Muốn vậy thì phải chắc rằng các tử tội đã chết.
Người ta có nhiều cách làm cho tử tội chết nhanh : (1) Đốt lửa dưới
chân thập giá để cho tử tội bị ngộp ; (2) Đánh gãy ống chân tử tội để tử
tội không còn có thể rướn mình lên mà thở nữa. Họ đã chọn cách thứ hai.
"Quân lính đến đánh dập óng chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị
đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Ngài đã chết, họ không
đánh dập ống chân Ngài nữa" (Ga 19,32-33). Nghĩa là Đức Giêsu đã chết
trước hai người kia. Có lẽ vì Ngài bị hành hạ nhiều hơn.
Tin Mừng Gioan viết tiếp : "Nhưng một người lính lấy giáo đâm
cạnh sườn Ngài. Tức thì máu cùng nước chảy ra" (Ga 19,34). Đây là cách
làm chắc ăn : xem bề ngoài thì chúng thấy Đức Giêsu đã chết. Nhưng cứ đâm
thêm một nhát vào tim thì bảo đảm hơn. Nếu dựa vào lời Đức Giêsu phục sinh bảo
Tôma "Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy" (Ga 20,27) thì ta có thể
đoán vết đâm to bằng bàn tay.
Nhưng ý nghĩa của những chi tiết này mới quan trọng : (1) Ống chân Đức
Giêsu không bị đập gãy : Tin Mừng Ga muốn nói Đức Giêsu chính là Con Chiên
Vượt Qua mà theo luật thì không được có tì vết nào và không một cái xương nào
bị gãy (x. Xh 12,46 ; Ds 9,12) ; (2) Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn
Ngài tượng trưng cho bí tích Rửa tội, bí tích Thánh Thể và sự tử đạo.
Chặng thứ 14 : Táng xác
Đnl 21,23 dạy không được để xác chết còn treo trên cây lúc ban đêm. Hơn nữa
những người thân của Đức Giêsu cũng không đành để Ngài ở lâu trên thập giá. Vì
thế nên dĩ nhiên là phải hạ xuống.
Tuy nhiên thông thường thì xác các tử tội sau khi được hạ xuống thì phải
quẳng vào hố chôn công cộng dành cho tội nhân. Chỉ sau khi thịt tan hết chỉ còn
xương thì thân nhân mới lãnh về được. Sở dĩ ông Giuse Arimathia phải đến xin
phép Philatô cho lãnh xác Đức Giêsu là vì lý do đó.
Tin Mừng Ga cho biết : "Ông Giuse này là một môn đệ theo Đức
Giêsu, nhưng cách kín đáo vì sợ người do thái" (Ga 19,38). Tin Mừng Lc cho
biết thêm : ông là "thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương
thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng
Hội Đồng" (Lc 23,50-51). Nghĩa là lúc Đức Giêsu rao giảng thì ông đã mộ
mến, nhưng vì sợ nên chỉ làm môn đệ cách kín đáo thôi ; khi Đức Giêsu bị
xử, ông không tán thành nhưng cũng còn sợ nên không dám ra mặt bênh vực. Đến
khi Ngài chết thì mọi sợ hãi tan biến hết. Cái chết của Đức Giêsu thật là nguồn
muôn ơn phúc.
Khi Giuse Arimathia đến xin lãnh xác, Philatô ngạc nhiên cho đòi viên đại
đội trưởng đến và hỏi Ngài đã chết lâu chưa. Sau khi viên đại đội trưởng báo
cáo sự việc thì Philatô chấp thuận cho Giuse lãnh thi hài (Mc 15,44-45)
Lúc đó thêm một nhân vật xuất hiện. Đó là Nicôđêmô. Cũng như Giuse
Arimathia, trước đó Nicôđêmô cũng mộ mến Đức Giêsu nhưng vì sợ nên không dám ra
mặt. Hôm nay ông đến "mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm
hương" (Ga 19,39).
100 cân do thái bằng 32 kílô bây giờ. Mộc dược là một sản phẩm đắt tiền, đó
là lễ vật mà các đạo sĩ đã dâng cho Đức Giêsu hài đồng. Tội nghiệp cho
Nicôđêmô. Có lẽ ông hối hận vì sau cuộc gặp gỡ ban đêm trước kia ông đã không
sớm theo làm môn đệ Đức Giêsu. Nay Ngài đã chết ông muốn chuộc lại lỗi lầm bằng
một lễ vật rất đắt tiền như thế.
Các môn đệ cùng với hai ông Giuse Arimathia và Nicôđêmô đã liệm xác Đức
Giêsu : "lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của
người do thái" (Ga 19,40). Có hai lớp vải liệm : một tấm dài gọi là sindon
"khăn liệm" quấn tròn thi hài ; một tấm ngắn và nhỏ gọi là soudarion
"khăn che mặt" đặt trên mặt thi hài. Sau đó họ đặt thi hài Đức Giêsu
vào ngôi mộ mà Giuse Arimathia đã làm sẵn cho mình nhưng lúc đó chưa chôn cất
ai (Mt 27,60). Trước cửa mộ, họ vần một tảng đá lớn chặn lại.
TỪNG BƯỚC
THEO NGÀI (10)
CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
I. Ý nghĩa chung của ngày này
Việc cử hành vào chiều Thứ Sáu không phải là Thánh lễ mà
chỉ là một Nghi lễ tưởng niệm việc Đức Giêsu chịu chết.
Về ý nghĩa, ngày này
- Không phải là ngày để tang Đức Giêsu
- Không nhằm mục đích tâm lý giúp tín hữu tưởng mình đang
chịu nạn chịu chết với Đức Giêsu
- Những lễ nghi không nên là một cuộc trình diễn một vỡ
bi kịch cảm động để khơi lên những tâm tình sốt mến.
Đây là một mầu nhiệm Đức Tin :
- Chúng ta phải luôn tin rằng Đức Giêsu đã sống lại và đã
cứu độ chúng ta. Nhưng để có thể hiểu chúng ta được cứu khỏi một vực thẳm đầy
tội lỗi và gian tà như thế nào, chúng ta cùng với Ngài bước xuống vực thẳm đó.
- Nghi lễ Thứ Sáu tuần thánh nhắc lại việc Đức Giêsu
xuống vực thẳm ấy, gồm : a/ Tội lỗi của loài người ; b/ những đau khổ
của nhân loại về thể xác cũng như tinh thần (bị hất hủi, bị người thân phản
bội, bị thất bại, bị xâm phạm thân thể, bị đối xử bất công, bị nhục nhã, nỗi lo
âu khủng khiếp như hấp hối, sợ hãi, chết v.v.)
- Nghi lễ hôm nay phải giúp ta ý thức tầm mức nghiêm
trọng của sự dữ và sự tội ; đồng thời ý thức giá trị tuyệt vời của việc
Chúa cứu chuộc chúng ta.
II. Bầu khí
Để tôn kính việc Đức Giêsu chịu chết, bầu khí của nghi lễ
hôm nay rất đặc biệt :
- Thinh lặng : bắt đầu Nghi lễ không có hát. Kết
thúc nghi lễ cũng vậy.
- Trần trụi : Từ cuối nghi lễ tối Thứ Năm, bàn thờ
đã được lột hết các khăn trải. Trong nghi lễ hôm nay cũng thế (tới lúc rước lễ
mới trải khăn phủ bàn thờ và khăn thánh ra. Kết thúc nghi lễ, lại lột hết).
Trên bàn thờ hoàn toàn trống trải : không có thánh giá, chân đèn và bông
hoa gì cả.
III. Các bài đọc
1. Bài đọc I (Is 52,13--53,12)
Đây là bài ca thứ IV về Người
Tôi Tớ trong sách Isaia, là bài ca cuối cùng trong 4 bài ca, dài
nhất (15 câu) và cũng rõ nhất về hình ảnh Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
Vấn đề : Các kitô hữu đầu tiên đã cảm thấy khó hiểu
và hoang mang về cuộc chịu nạn chịu chết rất đau đớn và ô nhục của Đức Giêsu.
Họ tự hỏi : Con Thiên Chúa vinh quang quyền phép mà tại sao có thể bị khổ
sở, nhục nhã và bị giết chết như vậy. Họ đã đọc lại Thánh Kinh và tìm được lời
giải thích trong hình ảnh Người Tôi Tớ.
Có 3 ý tưởng chính :
a/ Những đau khổ mà Người Tôi Tớ phải chịu : rất
nhiều và rất nặng
- về thể xác : bị hành hạ đến nỗi mang thương tích
đầy mình, mặt mày tan nát không còn giống mặt người nữa
- về tinh thần : bị khinh khi, ruồng bỏ đến nỗi
không ai muốn nhìn, không ai đếm xỉa tới.
- bị ức hiếp, buộc tội, rồi giết
chết, bị chôn giữa những kẻ ác ôn.
b/ Tuy nhiên Người Tôi Tớ ấy chịu khổ như thế không phải
vì tội của mình mà vì tội của mọi người : "Chính người đã bị đâm vì
chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm", "Vì tội lỗi
của dân, người bị đánh phạt"
c/ Người Tôi Tớ ấy không chịu khổ như thế mãi nhưng sẽ
được cứu thoát và được Thiên Chúa ban thưởng : "Này đây Người Tôi Tớ
của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng".
Đây là ý tưởng được nhấn mạnh nhất trong 3 ý tưởng vừa kể, cho nên chẳng những
nó được nêu lên sau 2 ý tưởng kia mà còn được nói tới đầu tiên khi vừa bắt đầu
bài ca.
2. Bài
đọc II (Do thái 4,14-16 ; 5,7-9)
Vấn đề : Các tín hữu gốc do thái đã bỏ Do thái giáo
để theo Kitô giáo. Nhưng khi sang Kitô giáo, họ cảm thấy bị mất mát, hụt hẫng,
họ nghĩ mình đã bỏ mồi bắt bóng :
- Về lễ nghi : ngày trước khi còn trong do thái
giáo, họ được tham dự những lễ nghi long trọng ở Đền thờ Giêrusalem ; bây
giờ trong Kitô giáo, những lễ nghi rất đơn giản trong những căn hộ kitô hữu,
nhiều khi phải lén lút cử hành.
- Về đời sống : ngày trước họ được hưởng những đặc
quyền mà đế quốc Rôma dành cho người do thái (như nghỉ ngày Sabát, miễn quân
dịch, không phải thờ các thần Rôma, được công khai tham dự các lễ do thái giáo
v.v.) ; bây giờ họ bị cả người do thái lẫn người rôma thù ghét, truy đuổi.
Để an ủi họ, tác giả thư Do thái mời họ hãy ngắm nhìn Đức
Giêsu là Thượng Tế siêu phàm hơn hẳn chức Thượng Tế của do thái giáo :
- Thượng Tế do thái giáo dâng lễ đền tội cho dân và cho
chính bản thân mình vì mình cũng có tội ; còn Đức Giêsu thì hoàn toàn vô
tội. Bởi thế vị Thượng Tế do thái giáo phải dâng lễ đền tội hằng năm, còn Đức
Giêsu Thượng Tế dâng lễ đền tội một lần duy nhất là đủ.
- Mặc dù cao sang như thế, nhưng Đức Giêsu Thượng Tế vẫn
biết cảm thương những yếu đuối của loài người, chia xẻ cuộc sống yếu hèn của
loài người cùng với những cảm giác khổ đau, sợ chết y như loài người.
- Ngài vừa là con người, vừa là Con Thiên Chúa cho nên
Ngài đúng là một trung gian tuyệt hảo. Bởi đó chúng ta có thể hoàn toàn chạy
đến cùng Ngài và tin tưởng tuyệt đối nơi Ngài.
3. Bài
thương khó theo Thánh Gioan
Raymond E. Brown tóm tắt ý nghĩa bài thương khó của 4 tác
giả Tin Mừng như sau :
- Đức Giêsu trong bài thương khó của Mc và Mt là một Đức
Giêsu cúi đầu (head bowed)
- Trong Lc là một Đức Giêsu đưa tay ra (hand
outstretched)
- Trong Ga là một Vị Vua đang ngư trị (reigning King)
a/ Ngài biết trước mọi điều sắp xảy ra và chủ động đón
nhận :
- Khi Giuđa dẫn lính tới bắt, "Đức Giêsu biết mọi
việc sắp xảy đến cho mình nên tiến ra hỏi" ; Khi Ngài xưng "Ta
đây" thì quân lính lùi ra sau ngã xuống đất à Không phải quân lính bắt Ngài, nhưng Ngài tự nộp mình.
b/ Chính Ngài ra lệnh và thúc đẩy những diễn tiến :
Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu bảo Giuđa "Anh muốn làm gì thì làm mau
đi" à Ngài thúc đẩy diễn
tiến.
c/ Trong những phiên xử, bề ngoài xem ra Ngài bị xử,
nhưng thực chất là Ngài đang xét xử người ta : Philatô đứng như bị cáo,
còn Đức Giêsu thì ngồi như quan tòa.
d/ Trong những cuộc hành hạ, bề ngoài xem ra Ngài đang là
nạn nhân, nhưng thực ra Ngài đang được tôn vinh như một Vị Vua : 3 lần
Philatô tuyên bố Đức Giêsu là Vua, quân lính cũng tổ chức (tuy có ý chế nhạo)
một màn tôn thờ Ngài là Vua ; bảng tội danh của Ngài ghi rõ bằng 3 thứ
tiếng Ngài là Vua.
Ý nghĩa của 3 bài đọc : giúp chúng ta hiểu Đức Giêsu chịu nạn chịu chết không phải vì có
tội gì, không phải vì thất thế thua cuộc mà vì Ngài tự ý hiến thân ; và
Ngài chịu nạn trong tư thế làm Vua ("Giờ" là lúc chịu chết mà cũng là
lúc lên ngôi).
IV. Những lời nguyện cho mọi thành phần
Cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá là lúc Ngài lên ngôi
Vua, cho nên "Giờ" ấy phát sinh ơn cứu rỗi cho mọi người thuộc mọi
thành phần nhân loại. Chính vì tin tưởng như thế cho nên sau khi đọc 3 bài đọc,
Giáo Hội cầu nguyện cho mọi thành phần nhân loại.
Cơ cấu 10 lời cầu như sau :
- 5 lời cầu cho Giáo Hội (Giáo Hội cách chung, ĐGH, giáo
sĩ và giáo dân, dự tòng, cho các kitô hữu được hiệp nhất)
- 3 lời cầu cho những người ngoài Giáo Hội (người do
thái, tín đồ các đạo khác, những người vô thần)
- 2 lời cầu cho những người sống trong thế giới (các nhà
lãnh đạo quốc gia, những người đau khổ)
V. Tôn thờ Thánh giá
* Lịch sử và ý nghĩa cái
chết thập giá
1/ Nguồn gốc xa xưa
- St 40,19 : Giuse giải nghĩa giấc chiêm bao của
viên quan chánh ngự thiện là "Còn 3 ngày nữa, Pharaô sẽ nâng đầu ngài lên
và treo ngài lên súc gỗ, và chim chóc sẽ ăn thịt mình ngài".
- 1 Sm 31,8-10 : Trong trận chiến tại Gilboa, quân
của vua Saun đánh thua quân Philitinh. Saun và 3 con trai đều chết. Quân
Philitinh đã chặt đầu họ. Riêng đối với Saun thì chúng còn lấy thi thể đem đi
đóng đinh trên tường thành Bet-Shan.
Hai chi tiết trên trong Cựu Ước cho thấy việc xử tử bằng
cách đóng đinh và treo lên cao có nguồn gốc rất xa xưa : từ thời nô lệ Ai
cập và thời các Thủ lãnh ; ở Ai cập và ở Canaan.
2/ Chuyển biến :
- Quân Assyria xử tử kẻ thù chiến bại bằng cách dùng một
cọc nhọn lớn đâm xuyên thi thể họ rồi dựng lên ; Et 7,9 : Vua Ba Tư
xử tử tướng Aman bằng cách treo hắn lên chính cây cột mà hắn định dùng để treo
ông Marđôkê à cách xử là đâm
bằng cọc lớn và treo thi thể lên ; mục đích là làm nhục kẻ thù đồng thời
đe dọa dân chúng.
- Về sau người ta thêm thanh ngang : Alexandre Đại
đế của Hy lạp đã đóng đinh 2000 người dân thành Tyr khi thành này bại trận.
Alexandre Jannée cũng đóng đinh 800 người pharisêu chống lại ông. Nhưng những
cuộc hành hình này bị phản đối, bị coi là quá tàn nhẫn.
- Thời Cộng hòa Rôma, hình xử này chỉ dùng cho những nô
lệ nổi loạn và cho quân cướp. Tuy nhiên những công dân Rôma thì không bị xử
kiểu này.
- Thời Tân Ước, đây là hình xử dành cho những tội nặng
nhất về chính trị như : đào ngũ, gián điệp, tiết lộ bí mật quân sự, nổi
loạn…
3/ Ý nghĩa :
- Các dân khác : tội nặng nhất, bị xử cách khủng
khiếp để răn chúng.
- Người do thái : Đnl 21,23 : Vì có tội nặng
nên bị Thiên Chúa phạt.
- Phaolô : 1 Cr 1,23-24 : Thập giá là điên rồ
đối với lương dân, và cớ vấp phạm đối với do thái.
- Từ thời hoàng đế Constantinô trở lại đạo : huỷ bỏ
hình phạt này, và Thập giá trở thành Thánh giá đáng kính và là biểu tượng của
chiến thắng.
Nghi lễÙ tôn thờ Thánh Giá
Nghi lễ gồm 2 việc chính :
a/ "Triển lãm" thánh giá : cho mọi người
thấy cách công khai, rõ ràng, kèm với lời tuyên bố "Đây là gỗ thánh giá,
nơi treo Đấng cứu độ trần gian" - "Chúng ta hãy đến thờ lạy".
- "Đây là gỗ" : nói lên ý nghĩa đau đớn
tàn bạo và hình phạt kẻ tội nặng.
- "Nơi treo Đấng cứu độ trần gian" : nói
lên biểu tượng chiến thắng, cứu độ.
b/ Bái thờ
Một lần nữa, ý nghĩa chiến thắng được nhấn mạnh.
VI. Rước lễ
Nghi lễ chiều Thứ Sáu không phải là Thánh Lễ. Nhưng có
rước lễ : không rước những bánh lễ được truyền phép trong Thánh lễ hôm nay
mà được truyền phép trong Thánh lễ Thứ Năm.
Ý nghĩa :
- Tính thống nhất và duy nhất của Tam nhật Vượt qua
- Rước lễ không phải chỉ là một phần nghi thức phải có
của một Thánh Lễ, nhưng là một việc hiệp thông : a/ Hiệp thông với Đức
Giêsu đã chịu chết và sống lại vì chúng ta ; b/ Hiệp thông với các tín hữu
khác trong cùng một đức tin.
VII. Một số việc đạo đức khác trong ngày này
1. Ăn chay kiêng thịt
- Ăn chay để chờ đợi Chàng Rể trở lại (Mt 9,15)
- Ăn chay để cho con người cũ chết đi và con người mới
sinh ra.
2. Đi đường Thánh Giá
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Ngày 7 tháng 4 năm 30
(Theo chân Đức Giêsu trong Tuần Thánh)
TỪNG BƯỚC THEO NGÀI (8)
I. Trước Tòa Philatô
Thượng Hội Đồng do thái
giáo, dù không có quyền nhưng đã tuyên án xử tử Đức Giêsu. Tuy nhiên để có thể
thi hành án này thì họ cần được Rôma chấp thuận. Bởi vậy họ giải Đức Giêsu đến
Philatô.
"Vậy người do thái điệu
Đức Giêsu từ nhà ông Caipha đến dinh Tổng trấn" (Ga 18,28).
Thực ra ở Giêrusalem
không có Dinh của tổng trấn Rôma vì ông không thường xuyên ở đây. Theo các sử
gia Philon và Flavius Josèphe cho biết thì Tổng trấn Rôma chỉ đến Giêrusalem vào
những dịp có đông người, để giám sát an ninh trật tự. Khi tới Giêrusalem, tổng
trấn thường ở tại Pháo đài Antônia nằm ở phía bắc thành Giêrusalem. Thông thường
thì ở pháo đài Antônia có khoảng 600 lính. Nhưng khi tình hình căng thẳng thì có
thêm quân từ thành phố Xêdarê đến tăng viện. Mà năm 30 thì tình hình căng thẳng
theo như một chi tiết ở Lc 13,1 cho biết (Lc 13,1 : một số người Galilê lên
Giêrusalem dự lễ đã bị lính của Philatô giết lây trong một cuộc dẹp loạn). Như
vậy, từ "dinh tổng trấn" chỉ là nơi tổng trấn đang ở thôi, và trong hoàn cảnh cụ
thể của chuyện này thì đó chính là pháo đài Antônia.
Như đã trình bày ở phần
trên, Thượng Hội Đồng Do thái giáo không có quyền xử tử. Họ đã lên án tử cho Đức
Giêsu vì tội phạm thánh, nhưng để án này được thi hành thì họ cần được tổng trấn
Rôma chấp thuận. Vì thế mà họ mới giải Đức Giêsu đến tòa của Philatô. Dù vậy, họ
biết rằng Philatô sẽ không chấp nhận án tử chỉ vì những lý do tôn giáo riêng của
dân do thái. Bởi đó trước mặt Philatô, Thượng Hội Đồng hoàn toàn không đá động
gì tới tội phạm thánh. Thay vào đó là 3 tội danh chính trị : xách động quần
chúng, ngăn chặn việc nộp thuế cho Xêda, và tự xưng là vua.
Thái độ của Philatô trong
phiên xử này rất là lưỡng lự : (1) Ban đầu ông không tin những lời tố cáo đó nên
nói : "Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy ?" (Ga 18,38). Nhưng để làm
vừa lòng người do thái, ông ra lệnh đánh đòn Đức Giêsu. Xong đưa Ngài ra trình
diện đám đông với một thân thể rất tội nghiệp, hy vọng rằng họ sẽ thương tình mà
đồng ý tha Ngài. Nhưng dân chúng la to : "Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy
khắp vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê cho đến đây" (Lc 23,5) ; (2) Philatô đang tìm
một lối thoát cho mình, nên vừa nghe tới Galilê ông liền chộp lấy cơ hội : giải
Đức Giêsu sang vua Hêrôđê. Ông này cai trị vùng Galilê và hiện đang có mặt ở
Giêrusalem để dự lễ. Hêrôđê là một người hiếu kỳ. Từ lâu ông đã muốn gặp mặt con
người đặc biệt tên Giêsu ấy. Nhưng Đức Giêsu chẳng làm một phép lạ nào cho ông
thưởng thức. Thậm chí Ngài cũng chẳng nói một câu nào. Hêrôđê thất vọng nên lại
gởi trả Đức Giêsu về cho Philatô. Thế là quả bóng lại được chuyền về phía
Philatô ! Ông này đành tiếp tục cuộc xử ; (3) Đang lúc Philatô bối rối như thế
thì bà vợ ông sai người đến nói với ông "Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công
chính này, vì hôm nay, trong chiêm bao, tôi đã khổ nhiều vì ông ấy" (Mt 27,19).
Những lời của bà vợ khiến Philatô càng muốn tha Đức Giêsu. Nhưng để có lý do mà
tha thì Philatô đưa một tên gian phi tên Baraba ra để cho họ so sánh với Đức
Giêsu, với hy vọng là họ sẽ xin tha Đức Giêsu. Nào ngờ người do thái lại xin tha
cho Baraba và đòi giết Đức Giêsu.
Các hoàng đế Rôma (như
Maximilen và Dioclétien) đã có chỉ dẫn cho các quan tòa rằng : "Quan tòa không
được nghe theo những đòi hỏi vô cớ của quần chúng, bởi vì họ thường muốn tha kẻ
có tội và kết án người vô tội". Philatô cũng biết điều đó chứ. Nhưng tại sao
cuối cùng ông giao Đức Giêsu cho người do thái đem đi giết ? Sử gia Philon cho
rằng Philatô đang có nhiều điều sai trái mà ông không muốn cho Hoàng đế biết :
do cai trị kém cỏi, ông đã để xảy ra nhiều cuộc nổi loạn, kho báu của Đền thờ bị
mất cắp, trong thời gian cầm quyền ông đã tham nhũng, ức hiếp người vô tội, điều
hành kém, ra nhiều sắc lệnh sai trái v.v. cho nên ông sợ người do thái sẽ cử một
phái đoàn đi Rôma tố cáo ông. Vậy để tránh tai họa này, ông đành làm theo đòi
hỏi của họ.
Vậy là cuối cùng, Philatô
đành giao Đức Giêsu cho người do thái đem đi đóng đinh.
Đến đây, bắt đầu những
cuộc hành hạ Đức Giêsu.
II. Đánh đòn
Cuộc hành hạ khởi sự với
màn đánh đòn.
Đối với luật do thái,
hình phạt đánh đòn được áp dụng cho một số tội (xem Đnl 25). Nhưng phải theo một
số quy định : (1) Phải dùng roi thường ; (2) Không được đánh quá 40 roi. Để bảo
đảm không sai luật, người ta thường chỉ đánh 39 roi rồi dừng lại : 13 roi trên
ngực, mỗi vai 13 roi ; (3) Đôi khi để tiến hành nhanh hơn, người ta có thể dùng
roi da 3 sợi. Khi đó thì chỉ được đánh 13 cái thôi.
Theo luật Rôma thì tàn
nhẫn hơn : (1) Không quy định số lần đánh, mà để tùy ý của vị xét xử hoặc của
người hành xử ; (2) Có hai loại roi : flagella là roi da. Nếu đánh mạnh thì có
thể làm gãy xương vai hoặc xương sống ; còn đánh nhẹ thì có thể làm tróc da.
Horace đã gọi hình thức đánh đòn này là "horribile flagellum" (trận đòn khủng
khiếp) ; flagra là những sợi dây xích mà ở cuối có gắn thêm những mãnh kim loại
hoặc xương cừu. Từ hy lạp trong Tin Mừng Mc chỉ loại roi thứ hai, còn trong Mt
là loại thứ nhất. Sự thực không biết thế nào. (3) Nạn nhân bị trói vào một cái
cột để khó né tránh những ngọn roi, còn áo quần thì phải cởi ra để cho các lằn
roi chạm mạnh hơn vào da thịt. Tóm lại hình phạt đánh đòn theo luật Rôma rất là
tàn nhẫn. Sách Công vụ Tông đồ kể rằng khi Phaolô sắp bị đánh đòn, ngài đã sử
dụng quyền công dân Rôma để thoát khỏi hình phạt tàn nhẫn này. (4) Ngoài ra, đối
với những nạn nhân bị án tử, việc đánh đòn này còn có mục đích làm cho nạn nhân
yếu đi để không còn sức chống cự khi bị đóng đinh.
III. Sỉ nhục
Ngoài hình phạt đánh đòn
chính thức, quân lính còn có thể nghĩ ra thêm những cách để hành hạ nạn nhân.
Đối với Đức Giêsu, chúng
bày trò chế diễu Ngài như một ông vua cỏ : lột áo Ngài ra, thay vào đó là một
tấm áo choàng màu đỏ tượng trưng cho cẩm bào, đặt vào tay Ngài một cây sậy tượng
trưng cho vương trượng, đội lên đầu Ngài một chiếc mão gai tượng trưng cho vương
miện.
ĐHY Carlo Maria Martini
đã giải thích tâm lý chiều sâu của đám quân lính hành hạ Đức Giêsu là
"frustration et désir de revanche", "vì bị thất đoạt nên thích trả thù".
a/ Thất đoạt : họ là
những kẻ làm lính để ăn lương nhưng lương thì rất thấp ; họ chỉ là lính quèn nên
thường bị các sĩ quan cấp trên chửi mắng, trừng phạt ; họ là lính cho đế quốc
nên bị dân chúng do thái khinh ghét…
b/ Những thất đoạt trên
cứ chồng chất ngày càng thêm trong lòng, tạo nên một sự dồn nén, hễ có dịp là
trút ra bằng những hành động dã man trên người nào vô phúc rơi vào tay họ. Và
Đức Giêsu là người vô phúc ấy.
Một số tài liệu lịch sử
có thể giúp chúng ta hiểu thêm về hình phạt đánh đòn và trò sỉ nhục mà Đức Giêsu
phải chịu :
1/ Có một trò lễ hội dân
gian được đặt tên là Sacaea : Người ta bầu chọn một người nào đó lên làm "vua
cỏ". Vị "vua" này được thoải mái trong hai ba ngày, tha hồ muốn làm gì thì làm,
kể cả ngủ với các cung phi của nhà vua. Sau 2,3 ngày đó thì ông vua cỏ ấy bị lột
hết quần áo, bị đánh đòn và treo cổ chết. Phải chăng đám lính Rôma đã bắt chước
tục lệ này để hành hạ Đức Giêsu ?
2/ Những khai quật khảo
cổ đã tìm thấy dấu vết của một trò mà lính Rôma thích chơi : ở một góc sân của
pháo đài Antônia có hình vẽ những ô chữ nhật tương tự như trò chơi nhảy cò cò
của trẻ em thời nay. Mỗi ô có một con số hoặc mẫu tự chỉ thị một việc nào đó mà
người chơi phải làm. Người ta dùng một thứ gì đó để thảy vào các ô ấy. Ai thảy
vào ô nào thì phải thực hiện điều được viết trong ô đó. Có lẽ quân lính Rôma đã
chơi trò này : chúng lần lượt thảy vào các ô, ai thẩy trúng ô nào thì thực hiện
lệnh viết trong ô đó lên mình Đức Giêsu (đánh bao nhiêu roi, hành hạ cách nào
v.v.)
TỪNG BƯỚC THEO NGÀI (9)
IV. Đường Thánh Giá
Từ thế kỷ IV, những người
hành hương Thánh địa có sáng kiến đi lại con đường Đức Giêsu đã đi trong cuộc
chịu nạn, từ pháo đài Antônia đến Núi Sọ, đoạn đường khoảng chừng 400-500 mét.
Sau đó, do các cha dòng Phanxicô quảng bá, việc đi đường Thánh Giá được thực
hiện ở nhiều nơi khác khắp thế giới : đi ngoài đường, đi trong nhà thờ v.v.
Thông thường thì đường
Thánh Giá gồm 14 chặng, nhưng cũng có những cách khác không theo số lượng đó
(chẳng hạn 15 chặng). Tuy nhiên sự kiện của mỗi chặng nhiều khi chỉ là suy đoán
(thí dụ 3 lần Đức Giêsu ngã xuống, Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ). Dù sao các suy đoán
ấy cũng không sai sự thật lịch sử. Ngoài ra chúng còn giúp ích cho lòng đạo đức.
Sau đây, xin đi vào chi
tiết một số chặng.
Chặng thứ 2 : Vác thập
giá
Có những cuộc xử tử phải
tiến hành cách "rầm rộ" để làm bài học răn đe dân chúng. Vì vậy mà phải tổ chức
một cuộc diễu hành của tội nhân qua các đường phố dẫn tới pháp trường.
Nếu xử theo luật do thái
thì có những chỉ dẫn sau đây của sách Talmud : Tử tội phải được dẫn đi giữa ban
ngày để mọi người đều có thể nhìn thấy ; một người dẫn đầu cuộc diễu hành vừa đi
vừa hô to tên của tội nhân và tội của hắn, hoặc cầm cao một tấm bảng ghi các chi
tiết này ; có hai học giả thần học đi kèm hai bên tội nhân và buộc tội nhân phải
thú nhận tội lỗi của mình, đồng thời tuyên bố mình chấp nhận chết để đền tội ;
lại có một đại diện của Thượng Hội đồng đi theo để giám sát cuộc thi hành án.
Nếu theo luật Rôma thì
cũng tương tự : đi đầu là một viên sĩ quan bách quản, tiếp theo là một toán lính
gồm từ tối thiểu là 4 người cho đến 100 người nếu tử tội là một kẻ nguy hiểm.
Cũng có một tấm bảng ghi tên và tội danh của người bị xử tử.
Không biết cuộc diễu hành
của Đức Giêsu qua các đường phố là theo kiểu Rôma hay do thái. Nhưng quả thực là
có cuộc diễu hành đó.
Sử gia Plutarque cho biết
là nạn nhân phải tự vác lấy thập giá của mình. Điều này đúng với chi tiết ghi
trong Tin Mừng Gioan : "Đức Giêsu vác thập giá của Ngài" (Ga 19,17). Nhiều sử
gia khác nhất trí rằng nạn nhân chỉ vác thanh ngang thôi, còn thanh dọc thì đã
để sẵn ở pháp trường. Cả bộ thập giá 2 thanh thì nặng chừng 70 kg, riêng thanh
ngang thì chỉ chừng 30 kg.
Nếu chỉ vác 30 kg thì một
người đàn ông 30 tuổi như Đức Giêsu dư sức. Nhưng đêm trước đó Ngài đã thức
trắng vì những cuộc thẩm vấn, bị đánh đòn, mất nhiều máu. Ngoài ra thời tiết
tháng 4 ở Giêrusalem rất nóng, nhất là từ 11 trưa giờ về sau. Bởi thế Đức Giêsu
vác không nổi (Từ đó người ta suy ra 3 lần Chúa Giêsu bị ngã xuống đất). Vị sĩ
quan phụ trách cuộc hành hình lo ngại Đức Giêsu không tới được nơi hành hình nên
đã bắt một người vác thay cho Ngài.
Chặng thứ 5 : Ông Simon
vác đỡ thập giá Đức Giêsu
Ba quyển Tin Mừng nhất
lãm đều ghi nhận chi tiết này (Mt 27,32 ; Mc 15,21 ; Lc 23,26). Đó là một người
vừa xong việc đồng áng trở về. Hôm đó chỉ mới là Thứ Sáu, chưa buộc nghỉ việc
theo luật Sabát. Tên ông là Simon người gốc xứ Xyrênê.
Thánh truyền cho rằng
Simon là một trong số 72 môn đệ Đức Giêsu. Mác cô cho biết thêm tên 2 người con
trai của ông là Alexandre và Rufus. Mác cô đã kể tên họ ra có lẽ vì họ là 2 nhân
vật tích cực trong Giáo Hội sơ khai. Thánh Phaolô cũng có nhắc tới ông Rufus (Rm
16,3). Bản thân Simon cùng với các con của ông đều đã trở thành những kitô hữu
tốt. Đó chính là hiệu quả của việc ông Simon thông phần vào Thập giá Đức Giêsu
vậy.
Chặng thứ 8 : Những phụ
nữ thành Giêrusalem
Thánh Luca ghi rằng "có
đông người đi theo" (Lc 23,27).
Điều này dễ hiểu : những
cuộc xử tử thường lôi cuốn những kẻ hiếu kỳ. Vả lại vụ án Đức Giêsu đã bắt đầu
từ 5 ngày trước nên dư luận đã biết tới nhiều. Mấy ngày sau, hai môn đệ Emmau đã
nói với Đức Giêsu mà khi đó các ông chưa nhận diện : "Chắc ông là người duy nhất
trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy
bữa nay ?" (Lc 24,18).
Đám đông ấy gồm những
ai ? Dĩ nhiên là có những kẻ hiếu kỳ, những người chưa từng quen biết Đức Giêsu.
Nhưng đương nhiên cũng có những người thân của Ngài, những người từng làm môn đệ
Ngài, những người từng chịu ơn Ngài. Điều khiến chúng ta phải suy nghĩ là không
một ai lên tiếng bênh vực Ngài. Chúng ta suy nghĩ về chi tiết này bởi vì Luật do
thái đã quy định rằng đang lúc cuộc xử tiến hành, chỉ cần có một người nào đó
lên tiếng phản đối bản án, thì phải xử lại ngay lập tức. Trong vụ án bà Suzanna,
tiếng nói của một đứa bé như Đaniên mà cũng thay đổi được tình hình. Dựa vào
khoản luật này, ta có thể tưởng tượng thêm mà không sợ sai là dẫn đầu đoàn diễu
hành có một viên chức thỉnh thoảng rao to lên : "Nếu có ai thấy vụ án này bất
công, nếu có ai thấy tên Giêsu này vô tội, thì hãy lên tiếng". Vậy mà không một
ai lên tiếng bênh vực Đức Giêsu !
Tại sao ? Chắc là vì sợ,
nhất là sợ các Thượng tế. Cũng có lẽ vì không muốn phiền phức lôi thôi : dù sao
thì sự việc đã định rồi. Thôi kệ ! Can thiệp chi cho mất công ! Và cũng có lẽ đó
là tâm lý thường tình của quần chúng : được làm vua, thua làm giặc ! Ngụ ngôn do
thái có câu : "Các ngôn sứ thất bại chỉ còn một ít đệ tử". Do tâm lý này, chẳng
những người ta không bênh vực Đức Giêsu, mà còn hùa theo đám đông để chế nhạo
Ngài.
Nhưng có một số phụ nữ
không kềm được tình cảm của mình. Họ đứng bên vệ đường khóc thút thít. Đức Giêsu
đã dừng lại an ủi họ (Lc 23,28.31). Ngài quên nỗi khổ của bản thân để an ủi
những người khác đau khổ.
Chặng thứ 6 : Bà Vêrônica
lau mặt Chúa
Thánh truyền kể rằng có
một phụ nữ đã can đảm tiến ra lấy khăn lau mặt Đức Giêsu. Và để đáp lại tấm lòng
của Bà, Ngài đã in khuôn mặt mình vào tấm khăn ấy. Bà ấy là ai ? Có nhiều giả
thuyết : (1) Đó là Maria làng Bêtania ; (2) Đó là người phụ nữ đã được Ngài chữa
khỏi bệnh loạn huyết ; (3) Đó là vợ của ông Dakêu, người mà trước đó không lâu
đã được Đức Giêsu ban ơn hoán cải ; (4) Đa số thì nói tên bà là Vêrônica. Có
người cho rằng Vêrônica là đọc trại tên Bérénice.
Cây Thập giá
Nơi hành hình Đức Giêsu
được 4 sách Tin Mừng đều gọi tên là "Sọ" trong tiếng Latin là Calvarius. Đó là
một ngọn đồi hình dáng giống chiếc sọ người. Luật ghi trong Đnl 13,11 buộc phải
thi hành việc xử tử ở một nơi mà nhiều người có thể nhìn thấy "để cho dân trông
thấy mà sợ". Chính vì thế mà người ta đã chọn địa điểm này, một ngọn đồi hơi cao
ở gần cổng thành.
Hình phạt đóng đinh có
nguồn gốc từ dân Ba Tư và được đế quốc Rôma xử dụng. Tuy nhiên Rôma chỉ áp dụng
hình phạt này cho những tên trộm cướp, phản loạn… thuộc thành phần nô lệ và
ngoại kiều. Viên chức nào ra lệnh đóng đinh một công dân Rôma thì sẽ bị kết tội.
Có nhiều loại thập giá :
(1) "Crux simplex", thập giá đơn, chỉ có một thanh dọc ; (2) "Crux summissa" hay
"crux commissa" có thêm thanh ngang phía trên, làm thành hình chữ T ; (3) "Crux
decussata" hình chữ X ; (4) "Crux capitata" đầu của thanh dọc cao hơn thanh
ngang một chút, nên thành hình chữ thập. Thập giá của Đức Giêsu thuộc loại thứ
tư này. Nó không cao lắm, chiều cao chỉ bằng 1,5 chiều cao thân thể nạn nhân, vì
nếu cao hơn thì khó cho việc hành hình.
Chuẩn bị đóng đinh
Trước khi tiến hành việc
đóng đinh, người ta cho nạn nhân uống một thứ thuốc giảm đau. Sách Châm ngôn ghi
lại một lời khuyên : "Hãy cho người sắp chết uống rượu mạnh" (Cn 31,6). Đây là
một thức uống nhằm làm giảm đau. Theo sách Talmud, ở Giêrusalem có một hội của
các phụ nữ giàu có chuyên cung cấp thứ nước này cho các tử tội. Tin Mừng Mc ghi
là người ta đã trao cho Đức Giêsu "rượu pha mộc dược" (Mc 15,23) ; còn Tin Mừng
Mt thì nói đó là "rượu pha mật đắng" (Mt 27,34). Có lẽ Mt đã lầm chữ hy lạp mora
(mộc dược) với memora (mật đắng). Vả lại Mt muốn viết như thế để cho thấy ứng
nghiệm Thánh vịnh 59,22 "Chúng đã pha mật đắng vào thức ăn của tôi, và chúng cho
tôi uống giấm chua". Dù sao thì cả Mc và Mt đều ghi nhận rằng Đức Giêsu đã không
uống : Ngài muốn chịu cho đến tận cùng những khổ hình thập giá.
Chặng thứ 10 : Lột áo
Sau khi cho nạn nhân uống
thuốc giảm đau, người ta lột áo nạn nhân ra. Cả 4 quyển Tin Mừng đều ghi nhận
Đức Giêsu bị lột áo (Mt 27,35 ; Mc 15,24 ; Lc 23,34 ; Ga 19,23).
Vấn đề cần tìm hiểu là
Đức Giêsu đã bị lột hết quần áo hay còn được chừa lại một chút để che sự lỏa lồ.
Một số người nghĩ rằng vì lòng nhân đạo, người ta không lột hết quần áo nạn
nhân. Nhưng Thánh Ambrôsiô, Augustinô và Cyprianô nghĩ rằng Đức Giêsu bị lột
hết. Sự thật không rõ thế nào. Riêng đối với nữ tội nhân thì người ta chừa lại
phần che phía thân trước.
Áo của nạn nhân thuộc
quyền sở hữu của đám lính hành hình, như một thứ thù lao. Tin Mừng Ga nói là
quân lính "đã chia áo Đức Giêsu ra làm bốn phần, mỗi người một phần" (Ga 19,23).
Nhưng chiếc áo dài của
Đức Giêsu không có đường khâu nên chúng không xé ra, mà rút thăm xem ai được (Ga
19,24).
Đây là loại áo mà vị
Thượng Tế do thái phải mặc. Bởi đâu mà Đức Giêsu có chiếc áo quý giá này ? Cũng
có nhiều giả thuyết : (1) Do Đức Maria dệt đặc biệt cho con mình ; (2) Đó là một
món quà của một phụ nữ đạo đức nào đó ; (3) Đó là tấm áo choàng đỏ mà quân lính
đã khoác lên Ngài để chế nhạo.
Chúng ta không cần tìm
hiểu lai lịch của chiếc áo này. Chỉ cần hiểu ý nghĩa mà Tin Mừng Gioan muốn nhấn
mạnh : (1) Đức Giêsu là Thượng Tế ; (2) Chiếc áo không bị xé ra tượng trưng cho
Giáo Hội của Ngài không thể bị chia rẻ.
Chặng thứ 11 : Đóng đinh
Trước tiên, cần tìm hiểu
vị trí của những chỗ đóng đinh trên thân thể nạn nhân. Ai cũng biết là đóng lên
tay và chân. Nhưng cần xác định rõ hơn nữa :
- Về tay : hầu hết các
bức họa đều vẽ Đức Giêsu bị đóng đinh giữa lòng bàn tay. Các vị được đặc ân in 5
dấu thánh cũng có vết thương nơi lòng bàn tay. Nhưng những nhà nghiên cứu dựa
trên y học thì nói rằng không thể đóng đinh vào giữa lòng bàn tay, vì khi treo
xác lên, sức nặng của cơ thể sẽ xé rách bàn tay ra và thân thể nạn nhân sẽ rơi
xuống đất. Vì thế họ cho rằng đinh phải được đóng ở chỗ dưới cườm tay. Chỗ này
có một cái hốc giữa hai nhánh xương nên sức chịu đựng lớn hơn. Giải thích này
hợp lý. Nếu Đức Giêsu bị đóng đinh nơi cườm tay thì sự đau đớn của Ngài khủng
khiếp hơn, bởi vì chỗ đó là nơi hội tụ những dây thần kinh.
- Về chân : Có lẽ người
ta bắt hai bàn chân của nạn nhân chụm lại và đóng một chiếc đinh duy nhất, phía
trên mắt cá.
- Về thứ tự những nhát
đinh : Ban đầu người ta bắt nạn nhân nằm lên thanh ngang để đóng hai tay vào đó.
Sau đó dùng dây để kéo thân thể lên thanh dọc, rồi đóng tiếp hai chân.
Những đau đớn vì bị đóng
đinh thật là khủng khiếp : (1) Đinh chạm vào các dây thần kinh nên gây ra những
cơn đau dữ dội ; (2) Chất sắc của đinh nhiễm vào máu gây ra chứng co giật vì
phong đòn gánh ; (3) Mất máu nên khát nước ; (4) Máu bị nhiễm trùng nên bộ máy
hô hấp phải làm việc tối đa để lọc máu ; (5) Nhưng trong khi đó thì hai tay của
nạn nhân bị căng ra nên khó thở. Để thở, nạn nhân phải rướn mình trên hai chân,
nhưng như thế là sức nặng toàn thân dồn xuống chân khiến hai chân rất đau. Để
bớt đau, nạn nhân lại buông mình treo trên hai tay và tới phiên hai tay phải
đau. Cơ thể nạn nhân cứ nhô lên hụp xuống liên tục. (Vì thế, để cho nạn nhân
chết nhanh, người ta đập gãy ống chân để không còn có thể rướn lên mà thở nữa).
Lịch sử cho biết thêm
rằng trong một trận chiến giữa người do thái với quân Rôma, quân Rôma đã bắt
được một thủ lãnh của người do thái tên là Éléazar. Quân Rôma chỉ cần làm bộ như
sắp đóng đinh vị thủ lãnh này thì lập tức quân do thái chịu đầu hàng ngay. Đủ
biết là hình khổ đóng đinh dã man đến mức nào ! Cũng chính vì hình phạt đóng
đinh quá dã man nên kitô hữu thế kỷ đầu không dám dùng ảnh Thánh Giá. Khi
Constantinô lên làm Hoàng Đế Rôma thì một trong những việc đầu tiên ông làm là
ra lệnh hủy bỏ hình phạt thập giá.
Khi việc đóng đinh hoàn
tất thì đã khoảng giữa trưa ngày thứ sáu áp lễ Vượt qua. Đó chính là giờ tín đồ
do thái bắt đầu giết chiên vượt qua. Cơn hấp hối của Đức Giêsu hòa nhịp với
những tiếng rên la của các con chiên vô tội đang vang lên khắp Giêrusalem.
Chặng thứ 12 : Những giờ
phút cuối cùng
Đức Giêsu hấp hối trên
thập giá "từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín" (Mt 27,45), nghĩa là từ 12 giờ trưa
đến 3 giờ chiều, tức là kéo dài 3 tiếng đồng hồ. 3 tiếng đồng hồ khủng khiếp !
Hai bên Ngài có hai tên gian ác cùng bị xử chung.
Nên nhớ là đồi Golgotha ở
gần cổng thành Giêrusalem, và lúc đó là thời gian sắp bắt đầu lễ Vượt qua, cho
nên khách đi ngang qua đó để tiến vào thành rất là đông. Đa số họ không tìm hiểu
cặn kẻ vụ án, chỉ thấy ai bị đóng đinh là cho rằng người ấy đã phạm trọng tội.
Vì vậy rất nhiều người chỉ chỏ, xì xào, chửi rủa.
Phần Đức Giêsu, từ đầu
tới cuối cuộc hành hình, Ngài luôn im lặng. Ngài chỉ nói 3 câu, 3 câu dạt dào
yêu thương :
1/ Câu nói thứ nhất của
Đức Giêsu : "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).
Người do thái không biết đến việc tha thứ cho kẻ thù. Môn đệ Đức Giêsu thì đã
được dạy làm thế. Nhưng tha thứ kẻ thù không phải là lý thuyết. Tha trong hoàn
cảnh cụ thể mình đang bị kẻ thù hành hạ khủng khiếp mới đáng phục. Đức Giêsu đã
nêu cho chúng ta một tấm gương tha thứ cụ thể đến mức nào !
Chúng ta hãy tìm hiểu một
hiện tượng được ghi lại trong Mt 27,45 : "Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả
mặt đất mãi cho đến giờ thứ chín". Hai quyển Tin Mừng nhất lãm kia cũng ghi nhận
như thế (Mc 15,33 ; Lc 23,44).
Hiện tượng này có xảy ra
thật không ? Một số nhà nghiên cứu cho là có thể, đó là do nhật thực. Nhưng
nhiều giáo phụ, như Origène, Jérome và Gioan Kim Khẩu cho rằng thời gian đó
không thể nào xảy ra nhật thực vì khi đó đang vào thời trăng tròn nên mặt trăng
không thể nào xuất hiện giữa ban ngày được. Có một giải thích khá hợp lý như
sau : đó là một hiện tượng đặc biệt gọi là Khamsin, "hơi thở đen của sa mạc",
tức là ở vùng sa mạc thỉnh thoảng có một luồng gió cuốn theo rất nhiều bụi che
đen cả một vùng trời trong một khoảng thời gian, Hiện tượng này không phải hiếm
ở vùng Trung Đông, nhất là vào khoảng tháng 4. Phải chăng đó cũng là hiện tượng
đã xảy ra bên Ai cập vào thời Môsê ?
Điều quan trọng là ý
nghĩa mà các Tin Mừng nhất lãm muốn nói qua cách diễn tả đó. Các ngài đã dựa vào
lời tiên tri của Amos (Am 8,9 : "Sẽ xảy ra là trong Ngày Ấy, Ta sẽ cho mặt trời
lặn giữa trưa ; và giữa ban ngày Ta làm cho đất tối sầm lại") để nói rằng đó là
dấu chỉ "ngày của Chúa" đã đến.
2/ Câu nói thứ hai của
Đức Giêsu : Ngài nói với một trong hai tên gian ác bị đóng đinh bên cạnh "Tôi
bảo thật anh : hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng" (Lc 23,43).
Nhiều người đã tìm hiểu
tên của hai kẻ gian ác này, và có nhiều giả thuyết : (1) Dismas và Geslas ; (2)
Démas và Cystas ; (3) Zoathan và Chammatha ; (4) Titus và Dumachus ; (5) Moab và
Zandi… Có giả thuyết nói rằng tên "trộm lành" này chính là đứa trẻ khi xưa đã
nhường thức ăn cho trẻ Giêsu khi Ngài tị nạn bên Ai cập. Lại có chuyện kể rằng
khi anh tỏ lòng sám hối với Đức Giêsu thì các Thượng tế tức giận nên ra lệnh đập
gãy ống chân của anh ! Chúng ta không quan tâm đến các truyền thuyết ấy. Chỉ ghi
nhận lòng nhân từ thương xót của Đức Giêsu. Tên trộm lành này chính là người thợ
làm vườn nho vào giờ thứ 11.
3/ Câu nói thứ ba của Đức
Giêsu là trối thánh Gioan cho Đức Mẹ và trao Đức Mẹ cho thánh Gioan (Ga
19,26-27). Giáo Hội hiểu thánh Gioan là đại diện cho mình.
"Đã hoàn tất"
3 giờ chiều. Tại Đền thờ
Giêrusalem bắt đầu các nghi thức đầu tiên của Lễ Vượt qua : 3 tiếng kèn (một
ngắn, một dài, một ngắn) thổi lên ; Vị Thượng Tế bắt đầu bước lên các bậc thang
Đền thờ, thánh ca hòa với tiếng sáo nổi lên. Đang lúc đó, trên đồi Golgatha Đức
Giêsu cũng cất tiếng "Thế là đã hoàn tất. Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần
khí" (Ga 19,30).
Đấy không phải là kết
thúc của một sự thất bại, mà là đỉnh cao của một cuộc chiến thắng, một chiến
thắng huy hoàng sau bao nhiêu chiến đấu vô cùng gian khổ. Thánh Gioan đã ngụ ý
như thế trong cách dùng từ của mình : (1) Không phải đầu Đức Giêsu hết sức không
thẳng nổi nên phải gục xuống, mà là Ngài chủ động gục đầu mình xuống ; (2) Không
phải đó là lúc hơi thở cuối cùng của Ngài tắt lịm, mà là lúc Ngài trao ban Thần
Khí cho nhân loại, Thần khí cứu độ, Thần khí thánh hóa.
Lúc đó lại có một hiện
tượng được hai quyển Tin Mừng Mt và Mc ghi nhận : Bức màn trong Đền thờ bỗng xé
ra làm hai từ trên xuống dưới (Mt 27,51 ; Mc 15,37) Riêng Mt còn thêm các chi
tiết "Đất rung, đá vở. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được
chổi dậy. Sau khi Chúa chổi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra
với nhiều người" (Mt 27,51-53).
Về bức màn, Cha Lagrange
cho là cũng chính cơn gió mạnh Khamsin đã nói phía trên làm cho bức màn trong
đền thờ bị xé rách.
Nhưng chúng ta nên hiểu ý
nghĩa mà những hiện tượng trên ám chỉ : (1) Bức màn đó là màn ngăn cách gian
thánh của Đền thờ với các gian khác phía ngoài. Nó bị xé rách nghĩa là cái chết
của Đức Giêsu đã xoá bỏ sự ngăn cách giữa Thiên Chúa với loài người, giữa dân do
thái và muôn dân ; (2) Đất rung đá vở là những hiện tượng cho biết có Thiên Chúa
can thiệp : cái chết của Đức Giêsu nằm trong chương trình cứu độ của Thiên
Chúa ; (3) Các thánh "chổi dậy" là hiệu quả của cái chết cứu chuộc của Đức
Giêsu.
Lưỡi đòng
Trời sắp về chiều, toán
lính phụ trách hành hình muốn kết thúc công việc để về nhà. Muốn vậy thì phải
chắc rằng các tử tội đã chết.
Người ta có nhiều cách
làm cho tử tội chết nhanh : (1) Đốt lửa dưới chân thập giá để cho tử tội bị
ngộp ; (2) Đánh gãy ống chân tử tội để tử tội không còn có thể rướn mình lên mà
thở nữa. Họ đã chọn cách thứ hai. "Quân lính đến đánh dập óng chân người thứ
nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và
thấy Ngài đã chết, họ không đánh dập ống chân Ngài nữa" (Ga 19,32-33). Nghĩa là
Đức Giêsu đã chết trước hai người kia. Có lẽ vì Ngài bị hành hạ nhiều hơn.
Tin Mừng Gioan viết
tiếp : "Nhưng một người lính lấy giáo đâm cạnh sườn Ngài. Tức thì máu cùng nước
chảy ra" (Ga 19,34). Đây là cách làm chắc ăn : xem bề ngoài thì chúng thấy
Đức Giêsu đã chết. Nhưng cứ đâm thêm một nhát vào tim thì bảo đảm hơn. Nếu dựa
vào lời Đức Giêsu phục sinh bảo Tôma "Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy" (Ga
20,27) thì ta có thể đoán vết đâm to bằng bàn tay.
Nhưng ý nghĩa của những
chi tiết này mới quan trọng : (1) Ống chân Đức Giêsu không bị đập gãy : Tin Mừng
Ga muốn nói Đức Giêsu chính là Con Chiên Vượt Qua mà theo luật thì không được có
tì vết nào và không một cái xương nào bị gãy (x. Xh 12,46 ; Ds 9,12) ; (2) Máu
và nước chảy ra từ cạnh sườn Ngài tượng trưng cho bí tích Rửa tội, bí tích Thánh
Thể và sự tử đạo.
Chặng thứ 14 : Táng xác
Đnl 21,23 dạy không được
để xác chết còn treo trên cây lúc ban đêm. Hơn nữa những người thân của Đức
Giêsu cũng không đành để Ngài ở lâu trên thập giá. Vì thế nên dĩ nhiên là phải
hạ xuống.
Tuy nhiên thông thường
thì xác các tử tội sau khi được hạ xuống thì phải quẳng vào hố chôn công cộng
dành cho tội nhân. Chỉ sau khi thịt tan hết chỉ còn xương thì thân nhân mới lãnh
về được. Sở dĩ ông Giuse Arimathia phải đến xin phép Philatô cho lãnh xác Đức
Giêsu là vì lý do đó.
Tin Mừng Ga cho biết :
"Ông Giuse này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo vì sợ người do
thái" (Ga 19,38). Tin Mừng Lc cho biết thêm : ông là "thành viên của Thượng Hội
Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và
hành động của Thượng Hội Đồng" (Lc 23,50-51). Nghĩa là lúc Đức Giêsu rao giảng
thì ông đã mộ mến, nhưng vì sợ nên chỉ làm môn đệ cách kín đáo thôi ; khi Đức
Giêsu bị xử, ông không tán thành nhưng cũng còn sợ nên không dám ra mặt bênh
vực. Đến khi Ngài chết thì mọi sợ hãi tan biến hết. Cái chết của Đức Giêsu thật
là nguồn muôn ơn phúc.
Khi Giuse Arimathia đến
xin lãnh xác, Philatô ngạc nhiên cho đòi viên đại đội trưởng đến và hỏi Ngài đã
chết lâu chưa. Sau khi viên đại đội trưởng báo cáo sự việc thì Philatô chấp
thuận cho Giuse lãnh thi hài (Mc 15,44-45)
Lúc đó thêm một nhân vật
xuất hiện. Đó là Nicôđêmô. Cũng như Giuse Arimathia, trước đó Nicôđêmô cũng mộ
mến Đức Giêsu nhưng vì sợ nên không dám ra mặt. Hôm nay ông đến "mang theo chừng
một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương" (Ga 19,39).
100 cân do thái bằng 32
kílô bây giờ. Mộc dược là một sản phẩm đắt tiền, đó là lễ vật mà các đạo sĩ đã
dâng cho Đức Giêsu hài đồng. Tội nghiệp cho Nicôđêmô. Có lẽ ông hối hận vì sau
cuộc gặp gỡ ban đêm trước kia ông đã không sớm theo làm môn đệ Đức Giêsu. Nay
Ngài đã chết ông muốn chuộc lại lỗi lầm bằng một lễ vật rất đắt tiền như thế.
Các môn đệ cùng với hai
ông Giuse Arimathia và Nicôđêmô đã liệm xác Đức Giêsu : "lấy băng vải tẩm thuốc
thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của người do thái" (Ga 19,40). Có hai lớp vải
liệm : một tấm dài gọi là sindon "khăn liệm" quấn tròn thi hài ; một tấm
ngắn và nhỏ gọi là soudarion "khăn che mặt" đặt trên mặt thi hài. Sau đó
họ đặt thi hài Đức Giêsu vào ngôi mộ mà Giuse Arimathia đã làm sẵn cho mình
nhưng lúc đó chưa chôn cất ai (Mt 27,60). Trước cửa mộ, họ vần một tảng đá lớn
chặn lại.
TỪNG BƯỚC THEO NGÀI (10)
CỬ
HÀNH PHỤNG VỤ
I. Ý nghĩa chung của ngày
này
Việc
cử hành vào chiều Thứ Sáu không phải là Thánh lễ mà chỉ là một Nghi lễ tưởng
niệm việc Đức Giêsu chịu chết.
Về ý
nghĩa, ngày này
-
Không phải là ngày để tang Đức Giêsu
-
Không nhằm mục đích tâm lý giúp tín hữu tưởng mình đang chịu nạn chịu chết với
Đức Giêsu
-
Những lễ nghi không nên là một cuộc trình diễn một vỡ bi kịch cảm động để khơi
lên những tâm tình sốt mến.
Đây là
một mầu nhiệm Đức Tin :
-
Chúng ta phải luôn tin rằng Đức Giêsu đã sống lại và đã cứu độ chúng ta. Nhưng
để có thể hiểu chúng ta được cứu khỏi một vực thẳm đầy tội lỗi và gian tà như
thế nào, chúng ta cùng với Ngài bước xuống vực thẳm đó.
- Nghi
lễ Thứ Sáu tuần thánh nhắc lại việc Đức Giêsu xuống vực thẳm ấy, gồm : a/ Tội
lỗi của loài người ; b/ những đau khổ của nhân loại về thể xác cũng như tinh
thần (bị hất hủi, bị người thân phản bội, bị thất bại, bị xâm phạm thân thể, bị
đối xử bất công, bị nhục nhã, nỗi lo âu khủng khiếp như hấp hối, sợ hãi, chết
v.v.)
- Nghi
lễ hôm nay phải giúp ta ý thức tầm mức nghiêm trọng của sự dữ và sự tội ; đồng
thời ý thức giá trị tuyệt vời của việc Chúa cứu chuộc chúng ta.
II.
Bầu khí
Để tôn
kính việc Đức Giêsu chịu chết, bầu khí của nghi lễ hôm nay rất đặc biệt :
-
Thinh lặng : bắt đầu Nghi lễ không có hát. Kết thúc nghi lễ cũng vậy.
- Trần
trụi : Từ cuối nghi lễ tối Thứ Năm, bàn thờ đã được lột hết các khăn trải. Trong
nghi lễ hôm nay cũng thế (tới lúc rước lễ mới trải khăn phủ bàn thờ và khăn
thánh ra. Kết thúc nghi lễ, lại lột hết). Trên bàn thờ hoàn toàn trống trải :
không có thánh giá, chân đèn và bông hoa gì cả.
III. Các bài đọc
1.
Bài đọc I
(Is 52,13--53,12)
Đây là bài ca thứ IV về
Người Tôi Tớ
trong sách Isaia, là bài ca cuối cùng trong 4 bài ca, dài nhất (15 câu) và cũng
rõ nhất về hình ảnh Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
Vấn
đề : Các kitô hữu đầu tiên đã cảm thấy khó hiểu và hoang mang về cuộc chịu nạn
chịu chết rất đau đớn và ô nhục của Đức Giêsu. Họ tự hỏi : Con Thiên Chúa vinh
quang quyền phép mà tại sao có thể bị khổ sở, nhục nhã và bị giết chết như vậy.
Họ đã đọc lại Thánh Kinh và tìm được lời giải thích trong hình ảnh Người Tôi Tớ.
Có 3 ý
tưởng chính :
a/
Những đau khổ mà Người Tôi Tớ phải chịu : rất nhiều và rất nặng
- về
thể xác : bị hành hạ đến nỗi mang thương tích đầy mình, mặt mày tan nát không
còn giống mặt người nữa
- về
tinh thần : bị khinh khi, ruồng bỏ đến nỗi không ai muốn nhìn, không ai đếm xỉa
tới.
- bị ức hiếp, buộc tội, rồi giết chết, bị chôn giữa những kẻ ác ôn.
b/ Tuy
nhiên Người Tôi Tớ ấy chịu khổ như thế không phải vì tội của mình mà vì tội của
mọi người : "Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng
ta lỗi lầm", "Vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt"
c/
Người Tôi Tớ ấy không chịu khổ như thế mãi nhưng sẽ được cứu thoát và được Thiên
Chúa ban thưởng : "Này đây Người Tôi Tớ của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi
bật và được suy tôn đến tột cùng". Đây là ý tưởng được nhấn mạnh nhất trong 3 ý
tưởng vừa kể, cho nên chẳng những nó được nêu lên sau 2 ý tưởng kia mà còn được
nói tới đầu tiên khi vừa bắt đầu bài ca.
2.
Bài đọc II
(Do thái 4,14-16 ; 5,7-9)
Vấn
đề : Các tín hữu gốc do thái đã bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng khi
sang Kitô giáo, họ cảm thấy bị mất mát, hụt hẫng, họ nghĩ mình đã bỏ mồi bắt
bóng :
- Về
lễ nghi : ngày trước khi còn trong do thái giáo, họ được tham dự những lễ nghi
long trọng ở Đền thờ Giêrusalem ; bây giờ trong Kitô giáo, những lễ nghi rất đơn
giản trong những căn hộ kitô hữu, nhiều khi phải lén lút cử hành.
- Về
đời sống : ngày trước họ được hưởng những đặc quyền mà đế quốc Rôma dành cho
người do thái (như nghỉ ngày Sabát, miễn quân dịch, không phải thờ các thần
Rôma, được công khai tham dự các lễ do thái giáo v.v.) ; bây giờ họ bị cả người
do thái lẫn người rôma thù ghét, truy đuổi.
Để an
ủi họ, tác giả thư Do thái mời họ hãy ngắm nhìn Đức Giêsu là Thượng Tế siêu phàm
hơn hẳn chức Thượng Tế của do thái giáo :
-
Thượng Tế do thái giáo dâng lễ đền tội cho dân và cho chính bản thân mình vì
mình cũng có tội ; còn Đức Giêsu thì hoàn toàn vô tội. Bởi thế vị Thượng Tế do
thái giáo phải dâng lễ đền tội hằng năm, còn Đức Giêsu Thượng Tế dâng lễ đền tội
một lần duy nhất là đủ.
- Mặc
dù cao sang như thế, nhưng Đức Giêsu Thượng Tế vẫn biết cảm thương những yếu
đuối của loài người, chia xẻ cuộc sống yếu hèn của loài người cùng với những cảm
giác khổ đau, sợ chết y như loài người.
- Ngài
vừa là con người, vừa là Con Thiên Chúa cho nên Ngài đúng là một trung gian
tuyệt hảo. Bởi đó chúng ta có thể hoàn toàn chạy đến cùng Ngài và tin tưởng
tuyệt đối nơi Ngài.
3.
Bài thương
khó theo Thánh Gioan
Raymond E. Brown tóm tắt ý nghĩa bài thương khó của 4 tác giả Tin Mừng như sau :
- Đức
Giêsu trong bài thương khó của Mc và Mt là một Đức Giêsu cúi đầu (head bowed)
-
Trong Lc là một Đức Giêsu đưa tay ra (hand outstretched)
-
Trong Ga là một Vị Vua đang ngư trị (reigning King)
a/
Ngài biết trước mọi điều sắp xảy ra và chủ động đón nhận :
- Khi
Giuđa dẫn lính tới bắt, "Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình nên tiến
ra hỏi" ; Khi Ngài xưng "Ta đây" thì quân lính lùi ra sau ngã xuống đất
à
Không phải quân lính bắt Ngài, nhưng Ngài tự nộp mình.
b/
Chính Ngài ra lệnh và thúc đẩy những diễn tiến : Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu
bảo Giuđa "Anh muốn làm gì thì làm mau đi"
à
Ngài thúc đẩy diễn tiến.
c/
Trong những phiên xử, bề ngoài xem ra Ngài bị xử, nhưng thực chất là Ngài đang
xét xử người ta : Philatô đứng như bị cáo, còn Đức Giêsu thì ngồi như quan tòa.
d/
Trong những cuộc hành hạ, bề ngoài xem ra Ngài đang là nạn nhân, nhưng thực ra
Ngài đang được tôn vinh như một Vị Vua : 3 lần Philatô tuyên bố Đức Giêsu là
Vua, quân lính cũng tổ chức (tuy có ý chế nhạo) một màn tôn thờ Ngài là Vua ;
bảng tội danh của Ngài ghi rõ bằng 3 thứ tiếng Ngài là Vua.
Ý nghĩa của 3 bài đọc :
giúp chúng ta hiểu Đức Giêsu chịu nạn chịu chết không phải vì có tội gì, không
phải vì thất thế thua cuộc mà vì Ngài tự ý hiến thân ; và Ngài chịu nạn trong tư
thế làm Vua ("Giờ" là lúc chịu chết mà cũng là lúc lên ngôi).
IV. Những lời nguyện cho
mọi thành phần
Cái
chết của Đức Giêsu trên Thập giá là lúc Ngài lên ngôi Vua, cho nên "Giờ" ấy phát
sinh ơn cứu rỗi cho mọi người thuộc mọi thành phần nhân loại. Chính vì tin tưởng
như thế cho nên sau khi đọc 3 bài đọc, Giáo Hội cầu nguyện cho mọi thành phần
nhân loại.
Cơ cấu
10 lời cầu như sau :
- 5
lời cầu cho Giáo Hội (Giáo Hội cách chung, ĐGH, giáo sĩ và giáo dân, dự tòng,
cho các kitô hữu được hiệp nhất)
- 3
lời cầu cho những người ngoài Giáo Hội (người do thái, tín đồ các đạo khác,
những người vô thần)
- 2
lời cầu cho những người sống trong thế giới (các nhà lãnh đạo quốc gia, những
người đau khổ)
V. Tôn thờ Thánh giá
*
Lịch sử và ý nghĩa cái
chết thập giá
1/
Nguồn gốc xa xưa
- St
40,19 : Giuse giải nghĩa giấc chiêm bao của viên quan chánh ngự thiện là "Còn 3
ngày nữa, Pharaô sẽ nâng đầu ngài lên và treo ngài lên súc gỗ, và chim chóc sẽ
ăn thịt mình ngài".
- 1 Sm
31,8-10 : Trong trận chiến tại Gilboa, quân của vua Saun đánh thua quân
Philitinh. Saun và 3 con trai đều chết. Quân Philitinh đã chặt đầu họ. Riêng đối
với Saun thì chúng còn lấy thi thể đem đi đóng đinh trên tường thành Bet-Shan.
Hai
chi tiết trên trong Cựu Ước cho thấy việc xử tử bằng cách đóng đinh và treo lên
cao có nguồn gốc rất xa xưa : từ thời nô lệ Ai cập và thời các Thủ lãnh ; ở Ai
cập và ở Canaan.
2/
Chuyển biến :
- Quân
Assyria xử tử kẻ thù chiến bại bằng cách dùng một cọc nhọn lớn đâm xuyên thi thể
họ rồi dựng lên ; Et 7,9 : Vua Ba Tư xử tử tướng Aman bằng cách treo hắn lên
chính cây cột mà hắn định dùng để treo ông Marđôkê
à
cách xử là đâm bằng cọc lớn và treo thi thể lên ; mục đích là làm nhục kẻ thù
đồng thời đe dọa dân chúng.
- Về
sau người ta thêm thanh ngang : Alexandre Đại đế của Hy lạp đã đóng đinh 2000
người dân thành Tyr khi thành này bại trận. Alexandre Jannée cũng đóng đinh 800
người pharisêu chống lại ông. Nhưng những cuộc hành hình này bị phản đối, bị coi
là quá tàn nhẫn.
- Thời
Cộng hòa Rôma, hình xử này chỉ dùng cho những nô lệ nổi loạn và cho quân cướp.
Tuy nhiên những công dân Rôma thì không bị xử kiểu này.
- Thời
Tân Ước, đây là hình xử dành cho những tội nặng nhất về chính trị như : đào ngũ,
gián điệp, tiết lộ bí mật quân sự, nổi loạn…
3/ Ý
nghĩa :
- Các
dân khác : tội nặng nhất, bị xử cách khủng khiếp để răn chúng.
-
Người do thái : Đnl 21,23 : Vì có tội nặng nên bị Thiên Chúa phạt.
-
Phaolô : 1 Cr 1,23-24 : Thập giá là điên rồ đối với lương dân, và cớ vấp phạm
đối với do thái.
- Từ
thời hoàng đế Constantinô trở lại đạo : huỷ bỏ hình phạt này, và Thập giá trở
thành Thánh giá đáng kính và là biểu tượng của chiến thắng.
Nghi lễÙ tôn thờ Thánh
Giá
Nghi
lễ gồm 2 việc chính :
a/
"Triển lãm" thánh giá : cho mọi người thấy cách công khai, rõ ràng, kèm với lời
tuyên bố "Đây là gỗ thánh giá, nơi treo Đấng cứu độ trần gian" - "Chúng ta hãy
đến thờ lạy".
- "Đây
là gỗ" : nói lên ý nghĩa đau đớn tàn bạo và hình phạt kẻ tội nặng.
- "Nơi
treo Đấng cứu độ trần gian" : nói lên biểu tượng chiến thắng, cứu độ.
b/ Bái
thờ
Một
lần nữa, ý nghĩa chiến thắng được nhấn mạnh.
VI. Rước lễ
Nghi
lễ chiều Thứ Sáu không phải là Thánh Lễ. Nhưng có rước lễ : không rước những
bánh lễ được truyền phép trong Thánh lễ hôm nay mà được truyền phép trong Thánh
lễ Thứ Năm.
Ý
nghĩa :
- Tính
thống nhất và duy nhất của Tam nhật Vượt qua
- Rước
lễ không phải chỉ là một phần nghi thức phải có của một Thánh Lễ, nhưng là một
việc hiệp thông : a/ Hiệp thông với Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại vì chúng
ta ; b/ Hiệp thông với các tín hữu khác trong cùng một đức tin.
VII. Một số việc đạo đức
khác trong ngày này
1. Ăn
chay kiêng thịt
- Ăn
chay để chờ đợi Chàng Rể trở lại (Mt 9,15)
- Ăn
chay để cho con người cũ chết đi và con người mới sinh ra.
2. Đi
đường Thánh Giá